Nữ tu (nun) là một thuật ngữ chuyên môn để chỉ một tu sĩ đan tu sống trong đan viện. (Trong tác phẩm Hamlet của Shakespeare, Hồi III Cảnh 1, Hamlet nói với Ophelia rằng: “Hãy vào nữ tu viện (nunnery) đi”. “Nữ tu viện” là một thuật ngữ tiếng Anh cổ để nói về tu viện hoặc đan viện nơi các nữ tu sống.) Về ngữ nghĩa, “nữ tu” (nun) dùng để chỉ những phụ nữ tuyên khấn các lời khấn trọng thể, sống định sở, và tuân giữ những lời khuyên Phúc Âm khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục. Hầu hết các nữ tu có đời sống đan tu, tức là sống tách biệt khỏi thế giời trần tục. Bất cứ ai đến thăm một đan viện của các nữ tu phải nói chuyện với các nữ tu đằng sau tấm lưới hoặc qua một cửa xoay (a turn). Cửa xoay là một cách thức để vận chuyển những hàng hóa vật chất cũng như thư từ ở bên ngoài vào tu viện. Nhà nguyện của một tu viện cũng được tách biệt. Đằng sau tấm lưới là các nữ tu; còn phía trước tấm lưới là cung thánh nơi Thánh Lễ được cử hành và sau đó là cộng đoàn đan viện. Bạn có thể gọi một nữ tu là “sơ” (sister).

Các nữ tu ( hình lấy từ nguồn Internet)

Không giống như các nữ tu (nun), các sơ (sister) là những nữ tu có thể làm việc giữa dân chúng và do đó được gọi là các nữ tu sống đời hoạt động thay vì chiêm niệm. Một số sơ là thành viên của các dòng. Các dòng này được thành lập trước thế kỷ XIV, và các sơ tuyên khấn trọng thể mà chỉ có Đức Giáo Hoàng mới có thể miễn giải lời khấn. Các sơ trong các dòng được thành lập sau thế kỷ XIV được gọi là cộng đoàn, tu hội hoặc hội dòng. Các sơ trong các cộng đoàn tu trì này không tuyên khấn trọng thể; nhưng đúng hơn là họ tuyên hứa. Các lời tuyên hứa thường được gia hạn hàng năm và do đó, bề trên cộng đoàn hoặc Giám mục có thể dễ dàng miễn giải. Những nữ tu này được gọi là sơ (sister), và nhiều cộng đoàn đã mặc những tu phục đặc trưng để biểu thị dòng tu riêng biệt của mình. Tuy nhiên, sau Công đồng Vaticanô II, khi các nữ tu được yêu cầu canh tân tu phục của hội dòng, nhiều nữ tu đã bỏ hẳn tu phục và chọn mặc quần áo bình thường như mọi người. Các cộng đoàn tu trì này cũng có những hoạt động Tông Đồ riêng biệt, đó là những sứ mạng thiêng liêng như giúp đỡ người nghèo, chăm sóc bệnh nhân, giáo dục giới trẻ, cầu nguyện cho tha nhân, v.v.

Nguồn: Rev. John Trigilio JR., Ph.D., and Rev. Kenneth D. Brighenti, Ph.D.,

The Catholicism Answer Book- The 300 Most Frequently Asked Question,

(Naperville, Illinois: Sourcebooks, Inc., 2007).

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *