So với rất nhiều lần thư Do Thái được sử dụng ở Năm B, thì trong Năm C chỉ có bốn lần nó được sử dụng làm Bài Đọc. Tuy nhiên, trong khi các bài đọc Năm B chú tâm vào chủ đề chức thượng tế của Đức Ki-tô, các bài đọc Năm C lại lấy từ phần mà Thư Do Thái kêu gọi độc giả sống tín trung bởi vì họ có một vị thượng tế như thế.

Như tôi đã ghi chú, thánh Phao-lô không phải tác giả của Thư Do Thái. Nhưng bởi vì có một truyền thống mạnh mẽ ở Hội Thánh Đông Phương sơ khai cho rằng ngài là tác giả của lá thư, và vì có nhiều chủ đề của nó giống với những chủ đề được tìm thấy trong những lá thư của thánh Phao-lô, tôi xếp thư Do Thái vào phần thảo luận của tôi về việc rao giảng của ngài. Vì tôi đã bàn về bối cảnh thư Do Thái ở Năm B, độc giả có thể tự tìm hiểu thêm.

(Ảnh sưu tầm từ Internet)

Chiến lược: Hiểu bối cảnh

Bối cảnh văn chương. Các bản văn từ thư Do Thái trong Năm C đến từ hai lời kêu gọi luân lý sâu rộng (10:26-12:13; 12:14-13:19) vốn tiền giả định đã trình bày giáo thuyết về chức thượng tế của Đức Ki-tô mà được tìm thấy ở những phần trước đó của lá thư, đặc biệt ở phần trung tâm (5:11-10:25). Phần đầu của lời kêu gọi là một lời mời sống kiên trì chịu đựng (10:26-12:13). Nó sẽ giống với nhiều lời kêu gọi khác nhờ chương 11 vốn kể về những tấm gương phi thường về lòng tin trong quá khứ của Ít-ra-en. Có ba bài đọc thư Do Thái (Dt 11:1-2, 8-19; 12:1-4; 12:5-7, 11-13) được trích từ mục này.

Mục này bắt đầu với một lời kêu gọi sẵn sàng bao gồm hai phần (10:26-39). Ở phần đầu (10:26-31), thư Do Thái nghiêm khắc cảnh báo độc giả rằng không có của lễ xóa tội nào khác có thể vượt qua điều Đức Ki-tô đã thực hiện. Vì thế, các tín hữu bắt buộc phải hồi đáp một cách tích cực đối với ơn cứu độ được dâng hiến trong Đức ki-tô. Ở phần sau (10:32-39), thư Do Thái nhắc lại những lối cư xử anh hùng của độc giả trong quá khứ khi họ đã phải chịu đựng “một thử thách đau khổ lớn lao” (10:32). Trích lời ngôn sứ Habakkuk (2:4), nó nhắc độc giả rằng những kẻ công chính sẽ sống nhờ đức tin và rồi nó kết luận, “Phần chúng ta, chúng ta không phải là những kẻ bỏ cuộc và phải hư vong, nhưng là những người có lòng tin và sẽ có sự sống” (10:39).

Việc trích dẫn từ Habakkuk và khẳng định rằng độc giả bao gồm những người có đức tin đã công bố chủ đề của chương 11, sức mạnh của đức tin. Bắt đầu từ sáng tạo rồi đi vào lịch sử Ít-ra-en từ Aben đến Ma-ca-bê, thư Do Thái kể lại hết gương mẫu này tới gương mẫu khác những anh chị em đã sống bởi đức tin. Chương này có thể có dàn ý như sau:

11:1-2     Phần mở đầu giải thích đức tin là gì.

11:3-7     Bốn mẫu gương đức tin: Tri thức của việc sáng tạo vũ trụ nhờ đức tin, đức tin của Aben, Enoch, và Nô-ê.

11:8-12   Đức tin của Áp-ra-ham: ơn gọi, hành trình của ông, sự ra đời của I-xa-ác.

11:13-16 Phản tỉnh và đức tin của những người đã chết mà không đạt được lời hứa nhưng vui vẻ chấp nhận nó với lòng tin vào một quê hương tốt hơn.

11:17-22 Bắt đầu lại với câu chuyện và lòng tin của Áp-ra-ham: sự sẵn sàng hy sinh I-xa-ác của ông; lời chúc lành của I-xa-ác dành cho Gia-cóp và Ê-sau; lời chúc lành của Gia-cóp dành cho các con trai của mình; những hướng dẫn của Gia-cóp để tìm lại xương của ông ở Ai Cập.

11: 23-31 Mẫu gương của ông Mô-sê và thế hệ thời Xuất Hành: đức tin của cha mẹ Mô-sê; đức tin của Mô-sê trong việc rời bỏ cung điện Pharaoh và Ai Cập; đức tin của Mô-sê trong việc xúc tiến lễ Vượt Qua; việc vượt qua Biển Đỏ; sự sụp đổ của thành Giê-ri-khô và đức tin của Rahab.

11:32-40 Đức tin của những anh chị em khác vốn không được tác giả nêu tên nhưng đã giữ niềm hy vọng “sẽ đạt được một sự phục sinh tốt đẹp hơn” (11:35).

Khi những nhà giảng thuyết suy tư về chương này, họ sẽ lưu ý lối sử dụng lặp đi lặp lại cụm từ “bởi đức tin” vốn xảy ra mười tám lần trong cc. 3-31. Sự lặp lại như thế nhắc độc giả về định nghĩa của đức tin ở 11:1 và củng cố trích dẫn từ Habakkuk rằng người công chính sẽ sống bởi đức tin.

Sau khi trình bày “đoàn chứng nhân” này từ quá khứ của Ít-ra-en (12:1), thư Do Thái kêu gọi độc giả hãy kiên trì chịu đựng (12:1-13). Để được như thế, nó kêu gọi độc giả luôn chăm chú vào Chúa Giê-su “người lãnh đạo và người giữ đức tin hoàn hảo” (12:2). Sau đó, trích dẫn sách Cn 3:11-12, nó nhắc độc giả rằng Đức Chúa giáo dục những kẻ người yêu mến (12:4-6). Trong ánh sáng của châm ngôn này, thư Do Thái kêu gọi thính giả chịu đựng những thử thách của họ như một cách giáo dục của Thiên Chúa, giống như họ sẵn sàng chịu phục tùng và học tập từ sự giáo dục mà những cha ông thế gian của họ đã trao ban (12:7-11). Cuối cùng, thư Do Thái kêu gọi thính giả hãy củng cố chính mình vì thế hệ tương lai (12:12-13).

Lời kêu gọi thứ hai và cuối cùng bao gồm 12:14-13:19 và có thể được sắp xếp như sau:

12:14-17 Một lời cảnh báo thất bại.

12:18-39 Tình trạng mới của các tín hữu.

12:18-24 Thành đô của Thiên Chúa hằng sống, thành Giê-ru-sa-lem thiên quốc.

12:25-30 Vương quốc vững bền không lay chuyển

13:1-19   Đời sống cộng đoàn và của lễ mới.

Bài đọc thứ tư từ thư Do Thái (12:18-19, 22-24a) đến từ mục này và, như dàn bài cho thấy, nó nói về tình trạng mới trong đó các tín hữu tìm thấy chính họ. Không như Ít-ra-en cũ, vốn gắn với cái nhìn đầy sợ hãi của Núi Xi-nai, cộng đoàn đức tin mới đã tiến gần đến thành đô của Thiên Chúa hằng sống nhờ vào máu của Chúa Giê-su, đấng là “trung gian của một giao ước mới” (12:24). Kết cục, họ có đủ lý do để chịu đựng đau khổ bởi vì, giống như đoàn nhân chứng được diễn tả ở chương 11, họ biết những điều tốt đẹp đang chờ đợi họ.

Chuyển ngữ: Phaolô Nguyễn Hữu Phong, S.J.
Nguồn: Frank J. Matera, Strategies for Preaching Paul
(Minnesota: The Liturgical Press, 2001), 149 – 152.