HỌC VIỆN THÁNH GIUSE – DÒNG TÊN VIỆT NAM
Luận bàn về quan điểm chính trị của Hàn Phi Tử
Luận văn tốt nghiệp
chương trình Triết Học
tại Học Viện Thánh Giuse – Dòng Tên Việt Nam
Học viên thực hiện
Gioan Baotixita Nguyễn Văn Biển, S.J.
Giáo sư hướng dẫn
Lý Minh Tuấn
Tháng 03 năm 2021
Dẫn nhập
Một thoáng nhìn lại dòng chảy lịch sử Trung Quốc có thể thấy, trong mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, bên cạnh việc thừa hưởng và phát huy những quan điểm sẵn có trước đó, các nhà tư tưởng Trung Quốc thường đưa ra những quan điểm về chính trị và đề ra các phương pháp để an dân trị quốc với những nét độc đáo của riêng họ. Cuối thời Xuân Thu, thời kỳ được đánh dấu bằng những bước chuyển mình lớn từ xã hội cho đến chính trị. Về mặt chính trị, thời kỳ này được xem là thời kỳ rối ren nhất của lịch sử Trung Quốc. Chiến tranh diễn ra triền miên giữa các nước. Về mặt xã hội, văn hóa, thời kỳ này là thời kỳ của “lễ băng hoại nhạc”, những quy tắc văn hóa ban đầu của thời Tây Chu không còn được thi hành.[1] Trước tình thế đó, Khổng Tử (551 – 479 TCN) đề ra quan điểm chính trị bằng đường lối lấy dân làm gốc, lấy hiếu đễ, lễ nhạc làm nền tảng cho sự giáo hóa nhằm khôi phục lại tôn ty trật tự xã hội theo mô hình lý tưởng ban đầu lúc nhà Chu còn hưng thịnh.[2] Gần như đương thời với Khổng Tử, đứng trước tình thế xã hội rối ren như vậy, Lão Tử cũng “kê đơn, bốc thuốc” cho tình cảnh xã hội đó ngang qua việc đề ra tư tưởng trị quốc bằng học thuyết Vô vi. Với học thuyết này, Lão Tử chủ trương xây dựng nên bậc thánh nhân cai trị thiên hạ bằng con đường Duy Đạo thị tùng (Chỉ theo Đạo mà thôi), Vô vi nhi trị (Cai trị bằng vô vi), và Dĩ dân vi bản (Lấy dân làm gốc).[3] Những quan điểm chính trị, thuật trị quốc tiếp tục được các nhà tư tưởng Trung Quốc nghiên cứu và đề xuất như Mạnh Tử (371 – 289 TCN) với đường lối Nhân chính vương đạo dựa trên nền tảng lấy dân làm gốc.[4] Hay Tuân Tử (302 – 210 TCN) với quan điểm xây dựng nên hình ảnh của bậc thiên tử kỳ tài đề giáo hóa dân chúng[5]… Nhìn chung, những tư tưởng trị quốc trên đều đặt nền trên quan điểm lấy dân làm gốc và đề cao việc xây dựng bậc thiên tử – thánh vương đức độ. Bên cạnh nhóm Nho, Mặc, Lão, Trang đều có chung quan điểm lấy dân làm gốc trong việc trị quốc, ở Trung Quốc thời đó còn có nhóm tư tưởng gia với quan điểm lấy vua, quốc gia để luận bàn chính trị, hay còn gọi là Pháp gia. Gương mặt nổi bật nhất của nhóm này là Hàn Phi Tử.
Hàn Phi (280 – 233 TCN) là công tử nước Hàn (con vua Công nước Hàn). Thuở thiếu thời, ông là một người ham học hỏi. Hàn Phi đến học với Tuân Khanh, tức Tuân Tử – một học giả và là một Nho gia lớn thời bấy giờ. Sau thời gian thụ giáo với Tuân Tử, Hàn Phi về nước với ước mơ đem hết những gì mình thủ đắc được ra giúp nước nhà. Thấy nước Hàn yếu kém, Hàn phi mấy lần dâng thư cho vua Hàn để chỉnh đốn quốc gia hầu chấn hưng thiên hạ, nhưng nhà vua không nghe. Từ đó, Hàn Phi tìm cách xây dựng một học thuyết với ý định truyền lại cho hậu thế ngõ hầu an dân trị quốc dựa trên ba nền tảng chính của tư tưởng Pháp gia đã có sẵn từ trước của phái trọng Thế của Thận Đáo (350 – 275 TCN), phái trọng Thuật của Thân Bất Hại (351 – 338 TCN), và phái trọng Pháp của Thương Ửng (390 – 338 TCN). Khi đi vào tìm hiểu về những luận thuyết này, Hàn Phi nhận ra, những lý thuyết của ba phái này cũng chỉ mới dừng lại ở những phép tắc rời rạc, khô cứng, mà thiếu đi một linh hồn để trở nên sinh động, uyển chuyển, để có thể áp dụng được cho nhiều trường hợp khác nhau. Nên bên cạnh việc thừa hưởng những quan điểm nền tảng của những luận thuyết đó, Hàn Phi đã thổi một hồn mới vào chúng bằng cách nhào nặn, chắt lọc, và phát triển chúng. Thêm vào đó, ông còn biết dung hợp và kế thừa những gì tinh túy nhất của hai trường phái Nho gia và Đạo gia. Từ những tư tưởng kế thừa này, Hàn Phi không những đã tạo nên những nét đặc sắc nhất của triết học Pháp gia, mà ông còn xây đựng được một hệ thống lý luận hết sức chặt chẽ, sinh động và có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển của lịch sử Trung Quốc.[6]
Dẫu được xem là một học trò xuất sắc của Tuân Tử, thế nhưng, Hàn Phi không bàn đến nhân nghĩa cũng như không trọng Lễ như Tuân Tử. Trái lại, ông đề cao phương pháp dùng Thế, Thuật, và Pháp của Pháp gia để trị quốc an dân. Ông xem Thế, Thuật, Pháp là công cụ của bậc đế vương để quản lý nhà nước. Chúng được xem như thế chân kiềng vững chãi để giúp nhà vua đứng vững hầu xây dựng và quản trị quốc gia cường thịnh.
Chương I
Thế
1. Thế là gì?
Dưới nhãn quan của Hàn Phi, điều tiên quyết một vị vua có thể đứng ra xây dựng và quản trị quốc gia tốt là phải xây dựng cho mình được một cái Thế. Cho nên, Thế được bàn luận rất nhiều trong tác phẩm của ông. Dưới ngòi bút của Hàn Phi, cái Thế được phác họa với những đường nét rất cụ thể, dễ hiểu, nhưng cũng đầy tính sáng tạo, cao viễn, và uyên thâm. Vì lẽ đó mà một số học giả cho rằng chính ông là người đầu tiên sáng tạo và luận bàn về cái Thế trong nền tư tưởng, chính trị của Trung Quốc. Tuy nhiên, ngược dòng thời gian, một thoáng nhìn lại dòng chảy lịch sử tư tưởng Trung Quốc có thể thấy, khi nhắc đến Thế, không thể không nhắc đến Pháp gia Thận Đáo – người khơi mào luận bàn và sử dụng Thế trong việc trị quốc.
Cho đến ngày nay, có rất ít thông tin về Thận Đáo, chúng ta chỉ có thể biết, Thận Đáo là một Pháp gia xuất thân từ nước Triệu. Ông là người đầu tiên khởi xướng về việc trọng Thế trong đường lối trị quốc của bậc quân vương.[7] Trong thiên Nạn thế (Chất vấn về cái Thế), Thận Đáo có nói: “Con rồng bay cưỡi mây, con rắn lượn bay trong sương mù. Mây tan mù tạnh, thì con rồng con rắn cũng chẳng khác gì con kiến, vì chúng đã đánh mất đi chỗ dựa vào. Người hiền mà phải chịu khuất phục trước kẻ hư hỏng, đó là quyền mình nhẹ, địa vị mình thấp. Kẻ hư hỏng mà có khuất phục được người hiền, đó là vì quyền cao, địa vị mình cao.”[8] Như thế, cây cung yếu mà bắn được mũi tên lên cao là nhờ sức gió đưa đi, kẻ đức mỏng, tài hèn mà lệnh ban ra được thi hành là nhờ sức giúp đỡ của quần chúng, do đó mà xét thì hiền và trí không đủ cho đám đông phục tùng, mà cái Thế và địa vị mới đủ khuất phục được người hiền.[9] Cho nên, Thế dưới quan điểm của Thận Đáo có nghĩa là quyền thế và địa vị, cái để cho bậc quân vương dựa vào đó mà xây dựng chỗ đứng mà cai trị bách tính.
Hàn Phi đã khéo léo vay mượn và thông chuyển cái Thế của Thận Đáo thành cái Thế của mình, khi ông cũng cho rằng cái Thế là cái địa vị quyền thế, là dũng khí để bậc quân vương trị vì bách tính.[10] Tuy nhiên, cái Thế ở đây được minh giải một cách cụ thể hơn. Dưới nhãn quan của Hàn Phi, cái Thế do chính con người lập ra, chứ không phải là căn cứ vào tự nhiên (do Trời lập ra). Bên cạnh đó, ông cũng cho rằng cái hiền và cái Thế rõ ràng không thể chấp nhận hay hòa hợp với nhau: “Phàm người hiền làm đạo thì cái thế không thể cấm được, với việc lấy cái thế làm đạo thì không cái gì mà không cấm được, lấy cái hiền không cái gì có thể cấm được ở vào cái thế không cái gì là không cấm được, đó là cái thuyết mâu thuẫn. Như vậy, rõ ràng cái hiền và cái thế là hai cái không thể chấp nhận nhau”.[11] Vì cái hiền và cái Thế “không thể chấp nhận được nhau”, nên Hàn Phi hạ thấp cái hiền mà đề cao cái Thế. Do đó, trong việc xây dựng nên quan điểm an dân trị quốc của mình, Hàn Phi đặt việc thượng tôn Thế lên hàng đầu.
2. Thượng tôn Thế (quyền vị)
Khi đề ra quan điểm thượng tôn quyền vị và để chứng minh cho quan điểm đó, Hàn Phi đã khởi đi từ quan điểm của mình về bản tính con người. Theo Hàn Phi, bản tính của con là người vốn phục tùng quyền bính: “bản tính con người vốn phục tùng theo quyền thế, chứ không có mấy người vì đạo nghĩa mà cảm hóa”.[12] Ông cho rằng dẫu thiên hạ bao la với đủ thứ hạng người, tuy nhiên, chỉ có rất ít người mến chuộng và sống theo nhân nghĩa. Để minh giải cho quan điểm của mình, ông đi vào phân tích chính đời sống của Khổng Tử, người mà ông xem như bậc thánh nhân.
Trọng Ni (Khổng Tử) là bậc thánh nhân trong thiên hạ. Ông ta trau dồi thân mình, đi chu du trong thiên hạ. Những người trong thiên hạ yêu chuộng chữ nhân, chữ nghĩa của ông ta đi theo hầu hạ ông ta có khoảng bảy mươi người. Như thế đủ thấy những kẻ quý chữ nhân rất ít, những kẻ có thể làm được chữ nghĩa rất hiếm. Cho nên cả thiên hạ rộng lớn như thế mà những người theo nhân nghĩa có khoảng bảy mươi người, và người nhân nghĩa chỉ có một.[13]
Tuy nhiên, khi chứng minh về bản tính của bách tính là vốn phục tùng theo quyền thế, thì ông đã đưa ra ví dụ về vua Ai Công (494-468 TCN), một vị vua đức mỏng tài hèn. Tuy nhiên, khi ông “quay mặt về phương nam làm vua một nước thì dân ở trong bờ cõi không ai là không làm tôi của ông. Sỡ dĩ mọi người trong đất nước của ông đều làm tôi của ông là vì bản tính của dân vốn phục tùng theo uy thế, uy thế rõ ràng dễ làm cho người ta phục theo mình vậy, cho nên Trọng Ni làm bầy tôi của ông ta.”[14] Đây được xem là một quan điểm mới mẻ trong nền tư tưởng Trung Quốc khi nhìn về bản tính con người thời ấy.
Chính vì cái Thế đóng vai trò nền tảng, nó giống như bệ đỡ cho bậc quân vương đứng trên để có thể trị vì được thiên hạ. Do đó, trong việc trị quốc, nếu mà vị vua nào khéo léo giữ được cái Thế của mình thì quốc gia được yên ổn. Còn vị vua nào không dựa vào cái Thế, thì đất nước bị khốn đốn.[15] Vì thế, bậc vua sáng trị vì quốc gia dựa trên cái Thế, Cái Thế không thể bị hại thì dù có sức của cả thiên hạ cũng không thể làm gì được.[16] Và một trong những cách hữu hiệu nhất để củng cố quyền vị của mình, đó là nhà vua phải xây dựng nên một thể chế tập quyền.
3. Xây dựng thể chế tập quyền
Khi nhà vua xây dựng được cho mình một cái Thế và để củng cố nó cho vững chãi, thì mọi quyền hành phải được tập trung vào một người là nhà vua. Để có thể làm được điều này, nhà vua phải được tôn kính và tuân theo một cách triệt để.[17] Trong chương Tam thủ (Ba điều phải giữ), Hàn Phi đã nêu ra ba điều mà nhà vua phải giữ để có thể làm cho đất nước được yên ổn, danh vua được vinh hiển. Một trong ba điều đó là cái quyền của nhà vua không thể san sẻ hay chuyển qua cho người khác. Ông cho rằng nếu bầy tôi có được cái tôn quý của vị đại thần, khiến cho mọi việc nội trị và ngoại giao lệ thuộc vào ông ta. Như vậy, dù người có tài giỏi nhưng chống lại ông ta thì bị họa, mà theo ông ta thì được phúc. Vậy thì quần thần không ai dám trung với vua, lo cho nước để bàn về việc xây dựng xã tắc. Dẫu nhà vua tuy tài giỏi nhưng không thể một mình quyết định, đã thế, bầy tôi lại không dám một lòng với nhà vua thì sớm muộn nước thế nào cũng mất. Bên cạnh đó, nếu quyền bính không tập trung một mình vào tay nhà vua, mà bầy tôi lại tranh nhau mua lấy ân sủng, nắm lấy quyền chính, trau dồi, củng cố cái Thế bên ngoài để chèn ép và chiến thắng ở bên trong, để rồi dần dà, cái Thế về tay đại thần.[18] Như thế, nhà vua không những không còn giữ được cái Thế, mà quyền hành lại nằm ở trong tay bọn chung quanh. Hệ quả là nhà vua sẽ bị lệ thuộc vào họ.
Cho nên, khi trị quốc, mọi quyền hành phải tập trung về tay nhà vua. Các quan đại thần không được phép tự ý mình quyết định lấy bất cứ công việc gì. Những người gần gũi nhà vua không được bám chắc quyền thế.[19] Một khi nhà vua giữ chắc quyền bính và nắm lấy cái Thế trong tay mình thì lệnh ban ra được thực thi và điều ngăn cấm khiến người ta thôi.[20] Vì thế, với nhà vua, cái uy không thể cho mượn, cái quyền không thể cùng chung chia, san sẻ với kẻ khác được. Nếu cái uy quyền chung với người khác thì bọn gian tà sẽ trở nên nhan nhản.[21] Khi mọi quyền bính đều tập trung vào tay nhà vua, thì nhà vua cần phải thể hiện cái quyền bính ấy ra hầu để trị an dân nước. Cách thể hiện quyền bính rõ ràng và hiệu quả nhất mà nhà vua dùng để trị quốc an dân là việc thưởng phạt.
4. Thưởng và phạt
Sở dĩ Hàn Phi cho rằng cách thể hiện quyền bính rõ nhất và tốt nhất để trị quốc là ngang qua việc thưởng phạt, vì ông đặt nền trên quan điểm về tình cảm tự nhiên của con người. Theo ông, tình cảm tự nhiên của con người là có yêu có ghét. Bên cạnh đó, hầu hết con người đều theo lẽ tự nhiên, đó là hám lợi, thích sự giàu sang, và được ban thưởng, ghét sự khó khăn và bị chê trách, trừng phạt. Có thể, điều này Hàn Phi chịu ảnh hưởng quan điểm về bản tính con người của thầy mình (Tuân Tử), khi ông cho rằng “nhân chi tính ác” (bản tính con người vốn ác).[22] Do đó, Hàn Phi cho rằng muốn trị thiên hạ thì phải dựa theo tình cảm con người. Tình cảm con người có yêu có ghét, cho nên sự thưởng phạt có thể dùng được. Mà việc thưởng và phạt có thể dùng được nên lệnh ngăn cấm có thể thi hành mà cái đạo trị nước có đủ vậy.[23] Trong việc thực thi quyền thưởng phạt của mình, trước hết nhà vua cần phải thi hành việc thưởng tín, phạt tất (thưởng phạt phải quyết đoán).
Thưởng tín, phạt tất (thưởng phạt phải quyết đoán)
Theo Hàn Phi, khi thi hành việc thưởng phạt, nếu “hình phạt thắng (ngay thẳng, quyết đoán) thì dân yên tĩnh, nếu thưởng rườm rà thì cái gian sẽ sinh ra”.[24] Cho nên, khi dùng hình phạt, đối với một vị vua sáng thì phải dùng hình phạt một cách quyết đoán. Việc thưởng phạt không gì bằng thưởng hậu và chắc chắn, khiến cho bách tính có lợi về việc đó, việc phạt thì không gì bằng phạt nặng và dứt khoát khiến cho muôn dân sợ phạt. Vì vậy, một khi mà nhà vua đã ban thưởng thì không có được thay đổi, đã trừng phạt thì không có chuyện buông tha. Bên cạnh đó, vì bản tính con người thích được khen thưởng và ca ngợi, ghét bị chê bai và trừng phạt, nên khi thưởng bất cứ điều gì, thì nhà vua phải lấy tiếng khen để bổ sung cho điều thưởng. Còn khi trừng phạt bất kỳ một ai, thì lấy chê bai kèm theo điều phạt. Như vậy, người hiền hay kẻ hư hỏng cũng đều dốc hết sức lực mình mà tận trung với nhà vua.[25] Tuy nhiên, bên cạnh việc thưởng tín, phạt tất đó, thì nhà vua cần phải thực thi việc thưởng hậu và phạt nặng.
Thưởng hậu, phạt nặng
Một trong những cách khuyến khích và ngăn cấm tốt nhất đối với Hàn Phi đó là thưởng phạt chắc chắn (thưởng hậu, phạt nặng). Để có thể đạt được cái mình muốn một cách nhanh chóng thì không gì bằng thưởng hậu, phạt nặng: “Thưởng hậu thì cái mình muốn có sẽ được nhanh; phạt nặng thì cái mình muốn cấm sẽ được chóng.”[26] Khi lập luận để bảo vệ cho quan điểm này, Hàn Phi cho rằng những kẻ muốn điều lợi thì ắt phải chán ghét điều hại. Cái hại là cái đi ngược lại với cái lợi, trái ngược với cái mà con người mong muốn. Thế thì làm sao cho người ta khỏi ghét? Người cai trị thì thế nào cũng ghét cái loạn lạc, mà cái loạn lạc lại đi ngược lại với cái trị. Cho nên, người muốn cai trị nhiều thế nào cũng phải thưởng hậu, người ghét loạn nhiều thế nào cũng phải trừng phạt nặng. Nếu chủ trương hình phạt nhẹ là ghét cái loạn ít, mà muốn trị cũng không nhiều. Điều đó dẫn đến việc không những không có thuật trị quốc mà còn không có lợi nữa. Như thế, cách phân biệt tốt nhất người hiền với kẻ hư hỏng, người ngu với người khôn là ở chỗ thưởng phạt nặng hay nhẹ.[27]
Bên cạnh đó, trong thiên Bát kinh (Tám nguyên lý) Hàn Phi tiếp tục minh giải vấn đề này khi cho rằng, khi thi hành việc thưởng thì không gì bằng thưởng hậu, khiến cho dân thấy đó là lợi. Khi thi hành việc khen thì không gì bằng khen đẹp để khiến dân thấy đó là vinh. Trừng phạt thì không gì bằng phạt nặng, khiến dân sợ hãi, tránh né. Chê bai và khiển trách thì không gì bằng chê, khiển trách nặng lời, khiến cho dân thấy đó là nhục. Tiếp đến mới thực thi pháp luật một cách thống nhất, ngăn cấm, và trừng phạt điều riêng, các gia đình lớn không làm hại tới việc thưởng phạt công tội, khen thưởng, và trừng phạt thì thế nào nhà vua cũng biết. Biết được điều đó thì hiểu tận cùng của cái đạo trị nước vậy.[28]
Để minh chứng cho luận điểm trên, Hàn Phi đã minh dẫn hình ảnh Thương Ưởng, một nhà tư tưởng lớn, đồng thời cũng là quan đại thần của nước Tần dưới thời Tần Hiếu Công (361 – 338 TCN). Theo ông, Thương Ưởng cai tri nước Tần, đặt ra quy chế tố cáo lẫn nhau để xét sự thực, cho các nhà kết thành từng nhóm năm nhà, mười nhà cùng nhau chịu tội, thưởng hậu mà chắc chắn, hình phạt nặng và dứt khoát. Vì vậy dân chúng dùng sức vất vả mà không tìm nghỉ ngơi, đuổi theo quân địch gặp hiểm nguy mà không chùn chân hay lùi bước. Nhờ vậy nước Tần từ một nước hèn kém trở thành một quốc gia hùng cường.[29] Do thế, việc thưởng phạt phải quyết đoán và thưởng hậu, phạt nặng. Tuy nhiên, để cho việc thưởng phạt của nhà vua có thể phát huy hiệu quả tối đa trong việc trị quốc thì việc thưởng phạt rất cần được thực thi một cách phân minh, vô tư.
Thưởng phạt phải phân minh, vô tư
Hàn Phi cho rằng nếu nhờ được khen mà được thưởng, bị chê bai mà bị hình phạt thì những người ham thưởng sợ phạt sẽ bỏ phép công, thi hành cái thuật riêng tư, kết bè với nhau để làm điều sai trái. Người dưới quên chủ, giao du với người nước ngoài để tiến cử những người cùng bè đảng với mình, như thế thì họ ít lo cho bề trên. Khi họ kết bè kéo cánh đông đảo, thì dù họ có phạm tội nặng đi chăng nữa cũng có nhiều người che đậy cho họ. Điều đó dẫn đến, kẻ trung thần dễ rơi vào tình cảnh không có tội mà chết. Kẻ gian thần không có công trạng nhưng lại được trọng thưởng. Khi bậc tôi trung bị cái nguy không có tội mà chết thì những bầy tôi tài giỏi và tâm huyết sẽ rút lui khỏi chốn quan trường. Kẻ tôi gian tà không có công trạng nhưng được hưởng lợi thì bọn gian thần tiến lên. Đó là cái gốc của sự vong quốc.[30] Cho nên, bậc vua sáng không khen thưởng theo cảm tính, bừa bãi, không tha việc trừng phạt. Khen thưởng bừa thì bầy tôi có công lao dễ bỏ bê công việc của mình. Tha việc trừng phạt thì kẻ gian thần dễ làm điều xấu. Như vậy, khi người ta quả thực có công thì dù là người xa và hèn hạ cũng cứ thưởng. Nếu người ta quả thực phạm sai lầm thì dù là người gần gũi và yêu thương vẫn cứ trừng trị. Nếu người gần và yêu cũng cứ trị thì những người xa và hèn hạ sẽ không dám biếng nhác, những người gần và được yêu thương cũng không dám kiêu căng, ngạo mạn.[31] Có thể nói, quyền thưởng phạt giống như côn trượng để thể hiện quyền bính tuyệt đối của các bậc quân vương nhằm chế ngự quần thần, thiên hạ. Tuy nhiên, trong khi trị quốc, thì chỉ có vua mới có quyền hành để sử dụng lợi khí đó, và nhà vua không thể san sẻ cho bất cứ ai về cái quyền hành đó.
Quyền thưởng phạt phải thuộc về Vua
Khi nói đến chỗ đứng cũng như vai trò của việc thưởng phạt của vua trong việc trị quốc, Hàn Phi cho rằng bậc vua sáng sỡ dĩ lãnh đạo và chế ngự được bầy tôi chẳng qua là nhờ hai cái cán mà thôi. Hai cái cán ấy chính là hình và đức. Hình ở đây có nghĩa là hình phạt, còn khen thưởng thì gọi là ân đức. Kẻ làm tôi thì mong được hưởng lợi ở chỗ khen thưởng và sợ bị phạt và bị giết. Nên kẻ làm vua nếu tự mình dùng hình phạt và ân đức thì bầy tôi sợ cái uy mà bỏ đi cái lợi của họ.[32] Vì lẽ đó, Hàn Phi đã sử dụng một hình ảnh ẩn dụ giữa hai con vật hổ và chó rất hay để nói về điều này. Sở dĩ hổ có thể khiến con chó phục tùng nó là nhờ nó có nanh, có vuốt. Nếu con hổ bỏ nanh vuốt của nó đi mà trao cho con chó dùng thì con hổ ngược lại phải phục tùng theo mệnh lệnh của con chó. Vì thế, quyền thưởng phạt là một lợi khí do đích thân nhà vua phải tự nắm lấy để khống chế bề tôi, không được trao ban hay ủy quyền cho ai. Nếu giao cho kẻ dưới, thì uy nhà vua sẽ bị phân tán, bề tôi sẽ che lấp, nhà vua không những không chế ngự được họ, mà trái lại còn bị họ khống chế. Vì thế, nếu nhà vua không tự nắm lấy hai cái quyền đó mà giao cho bề tôi, thì dân sẽ sợ và quy phục bề tôi mà coi thường vua.[33] Chính vì vậy, trong khi thực thi quyền thưởng phạt của mình, ngoài việc phải thi hành việc thưởng phạt một cách quyết đoán, thưởng hậu phạt nặng với tinh thần phân minh vô tư, thì nhà vua cần phải một mình nắm chắc lấy lợi khí đó để chế ngự quần thần củng cố vương quyền. Bao lâu nhà vua nắm chắc lấy lợi khí đó, thì cái Thế nhà vua vẫn đang còn được đảm bảo.
Luận bàn
Như đã trình bày ở trên, với Hàn Phi, cái Thế không phải tự nhiên mà có. Ông không tin rằng địa vị của bậc thiên tử (vua chúa) là do Trời thông ban sứ mạng để thay Trời hành đạo như Khổng Tử quan niệm. “Khổng Tử nói: ‘Thuấn thật là bậc rất có hiếu vậy! Đức hạnh nên thánh nhân, địa vị cao nên thiên tử (vua các chư hầu), giàu có trong bốn biển, hưởng tế nơi tông miếu, con cháu được giữ gìn. Cho nên có đức lớn ắt được ngôi, ắt được của cải, ắt được tiếng tăm, ắt được sống lâu”.[34] Hàn Phi quan niệm hoàn toàn ngược lại. Dưới nhãn quan của ông, cái Thế do con người lập ra, chứ không phải là do Trời hay một thế lực siêu nhiên nào đó khác thông ban cho. Sở dĩ có sự khác biệt trong cái nhìn của Hàn Phi so với Khổng Tử là vì, Hàn Phi đã chứng kiến biết bao nhiêu vị bạo chúa hôn quân, thấp kém về đức độ nhưng vẫn xây dựng được cho mình một cái Thế vững chãi và bắt muôn dân quy phục mình như trường hợp vua Lỗ Ai Công mà ông đã đưa ra để làm dẫn chứng. Vậy liệu chăng đây là một nét tiến bộ trong quan điểm về cái Thế của Hàn Phi so với Khổng Tử và một số Nho Gia đương thời? Nếu mà xã hội cứ bám theo quan điểm bậc thiên tử là do Trời thông ban và có tính “cha truyền con nối”, thì liệu rằng những vị vua hèn về tài, mỏng về đức, chỉ biết ăn chơi, bóc lột nhân dân, vẫn được nghiễm nhiên lên làm vua và lãnh đạo dân chúng nhờ quan điểm có tính “mê tín” vậy sao? Khi bàn về cái Thế, Hàn Phi không hề đề cập hay suy xét quyền vị như thế nào là chính đáng. Ông cũng không đặt vấn đề nếu nhà cầm quyền dùng sai lệch quyền thế thì sao. Ông chỉ ra sức biện luận những cách thức để nhà cầm quyền có thể xây dựng và củng cố được quyền bính và vị thế của mình. Còn quyền thế chính đáng hay không, không cần suy xét. Như thế, ở đây, dường như Hàn Phi đang cố công ra sức đưa ra những luận điệu để bảo vệ và củng cố cho địa vị của nhà cầm quyền, bất chấp việc làm của người đó như thế nào, hay cách thức nhà lãnh đạo đó nắm được quyền thế ra sao. Tuy nhiên, điều này cũng cần phải nhìn lại. Bởi vì, nếu một người lợi dụng vào khả năng của mình để đoạt lấy cái Thế của vua, chúa, thay vì khiêm tốn ra sức nâng đỡ và giúp vị quân vương của mình xây dựng đất nước thái hòa, phải chăng điều đó đang cổ xúy cho một xã hội chỉ trọng lấy quyền thế và địa vị, hay chỉ tôn kính lấy địa vị người lãnh đạo? Hay cái Thế nên do con người lập ra, tuy nhiên, nó phải được hình thành dựa trên kết quả của phổ thông đầu phiếu ngang qua những cuộc bỏ phiếu công bình của mọi công dân có đủ những điều kiện và năng lực cần thiết trong quốc gia đó?
Với quan điểm thượng tôn quyền thế, địa vị của nhà lãnh đạo, và mọi quyền hành điều phải tập trung về một mình nhà vua, trọng sự cưỡng chế, và đưa việc thưởng phạt lên hàng quốc sách, thì đường lối này rất hiệu quả trong việc giải quyết những công việc mang tính tức thời, khẩn cấp, và phù hợp trong thời loạn lạc. Nếu nhà lãnh đạo nắm lấy vị trí độc tôn muốn ra bất cứ quyết sách, mệnh lệnh nào mà dựa trên chính sách thưởng phạt, thì những quyết sách đó nhanh chóng được ban hành, vì không gặp phải bất cứ sự cản trở nào. Đúng như Hàn Phi đã quả quyết hễ làm đúng phép thì được ban thưởng, thi hành trái phép sẽ bị phạt thì sáng ban lệnh chiều sự tình đã thay đổi, chỉ trong mười ngày cả nước đã thay đổi cả, đâu phải đợi đến một năm.[35] Tuy nhiên, nếu trong một quốc gia mà mọi quyền hành đều tập trung vào một mình tay nhà vua, nhà nước không có bất cứ công cụ hay lợi khí gì để hạn chế quyền lực nhà vua, thì điều đó dễ dẫn đến chính thể Độc tài. Trong trường hợp này, nếu là một vị minh quân, như bậc quân tử của Nho giáo, thánh nhân của Lão giáo… thì quốc gia sẽ thái bình. Còn trong trường hợp là một vị hôn phu, thì xã hội dễ rơi vào tình trạng bóc lột bạo hành, dân chúng lầm than như những nhà lãnh đạo độc tài mà lịch sử đã lưu bút: Tần Thủy Hoàng, Hitler,… Còn trong một quốc gia có sự phân chia quyền bính theo Tam quyền phân lập (trias politica), trong đó ba quyền của nhà nước là lập pháp, hành pháp, và tư pháp được phân chia cho ba cơ quan độc lập nắm giữ như được khởi xướng bởi John Locke, và tiếp tục được Montesquieu nghiên cứu và phát triển.[36] Một cơ cấu lãnh đạo nhà nước như trên khả dĩ tránh được một hình thức nhà nước theo chế độ độc tài nhờ có sự phân quyền và kiềm chế lẫn nhau. Tuy nhiên, nếu nhà nước xây dựng theo mô hình đó, thì tính hiệu quả trong việc giải quyết những vấn đề cấp bách chưa hẳn đạt được hiệu quả hơn nhà nước được xây dựng theo cái nhìn của Hàn Phi. Vì nhà lãnh đạo theo những mô hình này sẽ bị hạn chế về quyền lực.
Với Hàn Phi, nhà lãnh đạo phải là người có tài để có khả năng sử dụng những thuật trị quốc, nhưng nhà lãnh đạo tuyệt đối không được hiền từ như chính ông đã quả quyết ở trên “cái hiền và cái thế là hai cái không thể chấp nhận nhau”. Tuy nhiên, nếu một đường lối chỉ đề cao cái Thế của kẻ cầm quyền mà khinh rẻ và xem nhẹ cái hiền đức của người lãnh đạo thì liệu rằng trong đường lối trị quốc, nhà lãnh đạo đó sẽ tránh khỏi việc áp dụng đường lối “bàn tay sắt” của mình ngang qua những luật lệ hà khắc, cứng rắn cùng với biện pháp thưởng phạt mà không cần phải có sự giáo hóa lễ nhạc như Nho giáo? Hơn nữa, trong một xã hội, nhà lãnh đạo cứ khư khư bám lấy phương tiện thưởng phạt mà giáo dục dân thay vì dùng nhân nghĩa, đức độ, và tri thức mà giáo hóa thì liệu rằng dân chúng có thực sự quy phục vì lòng mến hay không, hay điều đó chỉ làm cho dân quy phục vì sợ hãi và khiếp đảm để rồi đến một giây phút nào đó dân chúng không chịu nỗi cảnh áp bức hà khắc sẽ đứng lên chống lại nhà vua như tình trạng cuối thời nhà Tần hay thời hậu Hán. Vậy phải chăng, “phương dược” cho vấn đề này đó là thi hành đường lối xây dựng nên bậc thánh nhân làm vua, một con người có đạo đức thuần lương và hoàn bị, trí tuệ vô cùng sáng suốt, và an dân trị quốc với đường lối Vương chính theo như nhãn quan của Tuân Tử[37], hay là bậc thiên tử – thánh nhân đại đức, đại hiền theo như cái nhìn của Mạnh Tử?[38]
Khi nói đến cái Thế, tức cái địa vị và uy quyền của nhà lãnh đạo, các Nho gia cũng không khác so với Hàn Phi khi đề cao vai trò của cái Thế trong việc trị quốc. Chính vì thế, Nho giáo mới có quan điểm tôn quân. Tuy nhiên, có một điểm khách biệt rất lớn giữa các Nho gia và Hàn Phi. Thay vì đặt cái Thế lên một vị trí độc tôn như Hàn Phi, các Nho gia lại đưa tài đức lên vị trí hàng đầu trong vai trò của người lãnh đạo. Khổng Tử cho rằng: “Làm chính trị (trị dân) mà dùng đức (để cảm hoá dân) thì như sao Bắc Đẩu ở một nơi mà các ngôi sao khác hướng về cả (tức thiên hạ về theo)”.[39] Đức ở đây được hiểu là ngôn đi đôi với hành trên cơ sở cái thiện: “Người xưa thận trọng lời nói, sợ sẽ xấu hổ nếu nói mà không làm được.”[40] Cho nên, nhà lãnh đạo bên cạnh cái tài thì phải xây dựng và sở đắc cho mình một cái đức vững chắc, phải dùng đức mà trị quốc. Chính vì thế, đối với Khổng Tử, “Tài trí đủ để trị dân mà không biết dùng đức nhân để giữ dân, thì sẽ mất dân.”[41] Hơn nữa, dùng “pháp chế mà bắt dân, thì dân không phạm pháp nhưng không biết xấu hổ; dùng đức mà bắt dân, dùng lễ mà sửa cho ngay thì dân biết xấu hổ mà trở nên tốt.[42]
Để biện luận cho quan điểm thượng tôn quyền vị của mình, Hàn Phi đã đưa ra quan điểm về bản tính con người là ít mến chuộng nhân nghĩa, nhưng lại thích phục tùng quyền lực. Quan điểm này về bản tính con người là một quan điểm hoàn toàn mới mẻ vào thời điểm đó. Nó bắt nguồn từ chính kinh nghiệm mà ông rút ra từ Khổng Tử cũng như hình ảnh của vua Ai Công. Không ai có thể phủ nhận, có một số người vẫn thích phục tùng quyền bính. Nguyên nhân có thể bắt nguồn từ tâm lý như sợ sệt, thích quỵ lụy của họ… Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào cuộc đời của Khổng Tử cũng như vua Ai Công mà đúc rút ra quan điểm bản tính con người để áp dụng chung cho mọi người liệu có ổn chăng? Hơn nữa, Hàn Phi cũng chỉ nhìn vào trong một khoảng thời gian dương thế của Khổng Tử và vua Ai Công mà đưa ra quan điểm này. Tuy nhiên, sau khi nhà Tần sụp đổ, cho đến ngày nay, Khổng Tử vẫn được người ta tôn kính và xem như là một vị thánh ở nhiều nơi, nhất là ở các quốc gia Đông Á như Trung Quốc, Việt Nam… Điều đó cho thấy, vẫn rất nhiều người tôn kính ngài. Hơn nữa, cũng phải xét đến thời cuộc về giai đoạn lịch sử này. Thời Khổng Tử sinh sống là giai đoạn loạn lạc, dân chúng lầm than, và bị bức hại bởi tham quan, chiến tranh diễn ra triền miên… Và Khổng Tử chủ yếu dành trọn cuộc sống của mình để du thuyết khắp nơi, nên việc có ít người hiếu học và nhân nghĩa đi theo Khổng Tử để theo học không phải là một chuyện gì quá bất thường. Nên nếu chỉ dựa vào điều đó mà đánh giá chung về bản tính con người là ít ham thích đạo nghĩa, mà yêu thích phục tùng quyền lực liệu có quá hàm hồ?
Không ai có thể phủ nhận được vai trò của việc thưởng phạt trong việc khích lệ con người thi hành điều nghĩa tránh điều xấu. Và một trong những điểm sáng của Hàn Phi trong việc sử dụng quyền thưởng phạt là phải phân minh, chỉ dựa trên thành quả của công việc mà thi hành việc thưởng phạt, chứ không căn cứ trên lời nói hay danh tiếng. Hơn nữa, Hàn Phi cho rằng thưởng phạt phải áp dụng cách phân minh cho tất cả mọi người, cả thứ dân cũng như tầng lớp quan lại. Nếu làm tốt thì được thưởng, nếu làm sai trái hay không thi hành được công việc của mình thì cho dù là ai đi chăng nữa cũng bị trách phạt. Nếu áp dụng được điều này, thì xã hội sẽ tránh được các trường hợp như kẻ không làm hay làm sai nhưng khéo ăn nói lại được thưởng còn kẻ thi hành công việc cách tốt đẹp nhưng lại chẳng có công trạng gì. Bên cạnh đó, nếu áp dụng triệt để điều này còn tránh được tình trạng hối lộ, tham nhũng, những căn bệnh nan y còn kéo dài cho đến ngày nay ở nhiều quốc gia. Tuy nhiên, với việc áp dụng hình thức thưởng phạt một cách cứng nhắc, máy móc với hình thức thưởng hậu phạt năng, và thưởng tín phạt tất thì chỉ đem lại hiệu quả một cách nhanh chóng và trước mắt những gì nhà cầm quyền muốn thi hành. Tuy nhiên, bản tính con người đâu chỉ có hám lợi và thích được khen thưởng, sợ hại và ghét bị trách phạt như cái nhìn của ông? Trong xã hội vẫn không thiếu người vì lòng nhân mà yêu thương và giúp đỡ kẻ khác chứ không phải vì thích được người đời ca ngợi hay thưởng hậu, như biết bao nhiêu nhà từ thiện, các tình nguyện viên vẫn ra sức giúp đỡ tha nhân một cách vô vị lợi, như hình ảnh thánh Đamien (1840 – 1889) âm thầm phục vụ những người bị bệnh phong cùi trên đảo Molokai để rồi ngài cũng chung chia nỗi đớn đau tủi nhục với họ khi chính ngài cũng chết vì căn bệnh đó. Thánh Têrêxa Cancutta (1910 – 1997) tận hiến cuộc đời mình cho những người sống trong cảnh “màn trời chiếu đất” trong cơn hấp hối… Hơn nữa, với Hàn Phi, khi thi hành việc trách phạt, thì trách phạt phải quyết đoán không buông tha và hình phạt phải nặng. Vậy thì đâu là cơ hội dành cho cho những người vì trong một vài giây phút nông nổi, lầm lỡ hay ngay cả khi cố ý phạm tội nhưng sau đó lại muốn hoàn lương để trở thành những người có ích cho xã hội?
Hơn nữa, nhìn thoáng qua, những tưởng việc thi hành thưởng phạt của Hàn Phi là một bước tiến lớn trong dòng chảy của nền tư tưởng Trung Quốc nói riêng và cả nhân loại nói chung thời bấy giờ với mục đích nhằm đảm bảo tính công bình cho mọi người trong mọi việc làm của mình khi nhà vua thi hành nó một cách chí công vô tư. Tuy nhiên, xem xét kỹ sẽ thấy, thực ra việc thi hành thưởng phạt của ông cũng chỉ nhằm mục đích củng cố địa vị và quyền thế cho nhà lãnh đạo khi chỉ có nhà lãnh đạo là người duy nhất nắm lấy cái quyền đó. Bên cạnh đó, nhà lãnh bám vào cái lợi khí này để chế ngự không chỉ dân chúng mà chính những bậc quần thần, quan lại. Buộc quan lại, những người giúp việc cho nhà vua phải thi hành đúng chức năng và phận vụ của họ, tránh lạm quyền.
Nói tóm lại, theo quan điểm của Hàn Phi, trong việc xây dựng và củng cố địa vị vương quyền của mình, trước tiên nhà vua phải xây dựng cho mình một cái Thế thật chắc chắn. Để củng cố cho quyền vị của mình, nhà vua cần phải tập trung và nắm lấy quyền bính về tay mình mà không có san sẻ cho bất cứ một cá nhân hay nhóm người nào. Và một trong những lợi khí tốt nhất để thi hành nhằm đảm bảo quyền thế của mình, đó việc nhà vua thi hành quyền thưởng phạt một cách chắn chắn, quyết đoán, công minh, và vô tư ngõ hầu bề tôi quy phục một cách tuyệt đối nhà vua. Một khi xây dựng cho mình được cái Thế bền vững, nhà vua bất đầu an dân trị quốc, bình ổn xã tắc bằng phương pháp Thuật trị quốc của mình.
Chương II
Thuật
1. Thuật là gì?
Có thể nói, quan điểm về Thuật của Hàn Phi chịu ảnh hưởng lớn của Pháp gia Thân Bất Hại (401 – 337 TCN). Thân Bất Hại là người gốc ở đất Kinh thuộc nước Trịnh. Mới đầu, ông làm quan với một chức danh nhỏ ở Trịnh. Ông chuyên học về Hình danh (học thuyết của phái Danh gia). Về sau, ông được Chiêu Li Hầu nước Hàn dùng làm tướng quốc. Năm 376 TCN, nước Tấn bị chia làm ba quốc gia là Ngụy, Hàn, và Triệu. Hàn là nước nhỏ nhất, đất đai lại khô cằn, dân chúng lầm than. Thời gian Thân Bất Hại bắt đầu làm tướng quốc cho Chiêu Li Hầu chính là khoảng thời gian nước Hàn mới thành lập được vài chục năm. Về mặt hành chính, nhà vua tổ chức chưa ổn định, các luật lệ cũ của nước Tấn chưa kịp bỏ mà nhà vua lại ban hành thêm nhiều luật mới. Điều đó dẫn đến những mâu thuẫn trong luật pháp, nội chính rối ren, quan lại không biết phải áp dụng luật lệ nào, kẻ dưới thì thiếu sự phục tùng người trên. Đứng trước tình thế khó khăn đó, Thân Bất Hại chú trọng vào Thuật. Ông xem Thuật là yếu tố nền tảng để nhà vua dùng mà quản trị quốc gia. Vì thế, Thân Bất Hại được biết đến như người đầu tiên chủ xướng dùng Thuật trong việc trị quốc.[43] Nhờ tài nội trị và ngoại giao của Thân Bất Hại mà Hàn từ một nước nghèo trở thành một quốc gia hùng mạnh thời bấy giờ.
Với Thân Bất Hại, Thuật được hiểu theo nghĩa là kỹ thuật, nghĩa là phương pháp để tuyển, dùng, và xem xét khả năng của quan lại. Điều này được Hàn Phi đề cập trong thiên Định pháp (Xác định phép tắc): “Thân Bất Hại nói đến thuật. Thuật là nhân trách nhiệm giao chức quan, theo tên gọi mà yêu cầu sự thực. Nắm lấy cái quyền cho sống và giết chết, hiểu rõ năng lực của bề tôi.”[44] Tuy nhiên, quan điểm về Thuật của Thân Bất Hại dưới nhãn quan của Hàn Phi thì chưa đủ để ông vua dùng mà trị quốc. Vì thế, Hàn Phi đi đến một góc nhìn mở rộng hơn về Thuật. Theo ông, ngoài ý nghĩa là kỹ thuật, phương pháp dùng để tuyển, xem xét quan lại, Thuật còn có nghĩa là tâm thuật, tức là những mưu mô để chế ngự quần thần, bắt họ phải để lộ thâm ý của họ ra.[45] Sở dĩ, bậc vua chúa phải sử dụng Thuật là bởi vì họ có nhiệm vụ phải làm sao đảm bảo được quốc thái dân an, dân chúng phải thi hành theo luật pháp. Nhưng, vì công việc quá nhiều, nên một mình ông vua không thể đảm đương hết được tất cả mọi việc. Nhà vua phải giao việc cho quan lại. Do đó, nhà vua phải dùng Thuật để trị quan lại chứ không trị dân.[46] Cho nên, có thể nói, dưới con mắt của Hàn Phi, Thuật trị quốc chính là Thuật dụng nhân hay nói cụ thể là Thuật dụng quan lại.
2. Thuật dụng nhân
Thuyết hình danh
Để có thể làm cho quốc thái dân an, thì nhà vua cần phải xây dựng và áp dụng Thuật dụng nhân một cách nhuần nhuyễn để trị vì quan lại. Theo Hàn Phi, Thuật dụng nhân trước hết phải dựa theo quy tắc hình danh. Quy tắc hình danh có nghĩa là nhà vua không tự mình trực tiếp làm mọi công việc; mà thay vào đó, “ông cho bầy tôi trình bày biện pháp (danh) rồi giao cho anh ta làm, sau đó xét kết quả (hình) để quyết định thưởng phạt.”[47] Bên cạnh đó, nếu lấy luật pháp làm danh thì sự việc được gọi là hình, sự việc mà hợp với luật pháp thì danh và thực hợp nhau, nếu hai cái không hợp với nhau, thì danh và thực không hợp nhau. Trong việc trị quốc, nếu không theo quy tắc này, thì nhà vua không thể nào phân biệt được kẻ tài người kém, kẻ ngay người gian, không sao thưởng phạt cho đúng. Hệ quả, nhà vua sẽ mất quyền vị và nước sẽ loạn.[48] Khi áp dụng quy tắc hình danh, bậc vua chúa không được nghe theo sự giới thiệu của kẻ khác để có thể xem xét người mình muốn dùng có xứng đáng hay không. Bởi vì, người giới thiệu có thể vì tình cảm riêng tư, vì tính tư lợi, bè đảng mà đề cử những kẻ bất tài, hạng vô đức cho nhà vua. Vì thế, muốn bổ nhiệm bất cứ một người nào, nhà vua phải xem xét kỹ lưỡng, tham bác ý kiến của nhiều người, đích thân xem xét tài đức của họ rồi mới giao việc cho họ.[49] Sau khi tuyển dụng được bề tôi ưng ý để giúp mình cai trị bách tính, nhà vua cai trị bề tôi bằng phương pháp tham nghiệm (khảo sát biết lòng bề tôi).
Tham nghiệm (khảo sát biết lòng bề tôi)
Cách khảo sát để biết được lòng bề tôi của nhà vua đó là nhà vua buộc bề tôi của mình phải trình bày, nói ra để nắm lấy những tâm tư, suy nghĩ của họ. Vì thế, trong khi nghe bầy tôi trình bày, nhà vua không được để lộ ý nghĩ cũng như tình cảm của mình.[50] Đối với bề tôi, vua phải bắt họ phải nói, chứ không được làm thinh. Một khi bề tôi đã nói ra, thì lời nói phải có đầu có đuôi, có chứng cớ. Nhà vua phải khiến cho bề tôi có trách nhiệm với lời nói của mình, và buộc họ phải chịu trách nhiệm về chỗ không nói. Lời nói không có đầu có đuôi, lời bàn không được xác minh, như thế thì chịu trách nhiệm về lời nói. Biện luận mà không có chứng cứ, thì cũng phải chịu trách nhiệm về điều đã nói ra. Không để bề tôi trốn tránh trách nhiệm để giữ lấy địa vị quan trọng cho mình, đó là chịu trách nhiệm về chỗ không nói. Bậc vua chúa bắt bề tôi của mình hễ nói là phải có đầu có đuôi, đúng với sự thực. Nếu họ không nói thì phải hỏi họ lấy chỗ nào, bỏ chỗ nào trong đề nghị để rồi khi thực hành xét xem ý kiến họ có đúng hay không. Như vậy bề tôi không dám nói bừa, không dám làm thinh.[51] Bên cạnh đó, lời nói của bề tôi cũng phải nhất quán, thiết thực, có công dụng chứ không phải hư ngôn, xảo ngôn. Sau khi nghe bề tôi trình bày, biết được những kề nghị, kế hoạch của họ, lại tham nghiệm để dò xét lòng kẻ đó có đáng tin hay không, năng lực họ có đủ hay không, để rồi đi đến việc giao chức vụ cho họ.
Giao chức
Việc giao chức cho bề tôi phải bắt đầu bằng những công việc nhỏ bé. Trong thiên Hiển học (Những học giả nổi tiếng) Hàn Phi cho rằng quan lại của vị vua sáng phải bắt đầu từ những chức vị bé nhỏ, thấp hèn. Vị tể tướng thế nào cũng phải xuất thuân từ chỗ làm quan ở các châu, viên mãnh tướng thế nào cũng xuất thân từ chỗ quân đội, lính tráng. Các cấp bậc cứ tuần tự mà lên thì chức càng lớn càng có tài cai trị.[52]
Dẫu cho quan lại có tài giỏi hay đảm nhận chức vụ to lớn như thế nào đi nữa, tuy nhiên với bề tôi, vua phải phân công cho họ rõ ràng, mỗi người đảm nhiệm mỗi công việc và phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về chức vụ đó. Nếu mà những công việc không thuộc phận vụ của mình thì không được thi hành, dù biết thi hành việc đó là đem lại lợi ích cho đất nước.[53] Nếu quan lại mà thi hành những công việc không thuộc về phận vụ của mình thì sẽ bị quy vào tội vượt chức. Điều đó trái ngược với nguyên tắc hình danh (hình vượt danh).
Còn một khi nhà vua đã giao trách nhiệm cho bề tôi, thì nhà vua phải tin tưởng vào người đó, để họ làm việc, rồi dựa vào việc họ làm được hay không mà thưởng hay phạt, chứ không dùng kẻ khác để dòm ngó kẻ đó. Vì thế, trong thiên Nam diện (Ngoảnh mặt về hướng nam), Hàn Phi quả quyết: “Điều sai lầm của bậc vua chúa là ở chỗ đã giao trách nhiệm cho bầy tôi, rồi lại dùng những kẻ không được giao trách nhiệm để đề phòng những người trên… Bởi vì, nếu làm như trên thì nhà vua lại bị những người không được giao trách nhiệm chi phối.”[54] Tuy nhiên, trong việc quản trị quốc gia, nếu mà một vị vua sáng thì phải luôn biết thu mình, cẩn trọng, phải sở đắc cho mình một phương thế (Thuật) để có thể phòng bị và trừ gian ngõ hầu tránh được những mối họa cho bản thân và quốc gia.
3. Thuật phòng bị, trừ gian
Hàn Phi quan niệm bản tính con người là yêu thích và tìm kiếm điều lợi cho mình.[55] Thiết nghĩ, khi đưa ra quan điểm này, Hàn Phi chịu ảnh hưởng ít nhiều bởi quan điểm về bản tính con người của thầy mình là Tuân Tử khi cho rằng: “nhân chi tính ác, kỳ thiện giả ngụy” (bản tính con người vốn ác; cái thiện của họ là do họ tập luyện được.[56] Cùng với đó là chính kinh nghiệm quan sát của bản thân ông nơi triều chính khi chính ông là công tử (con vua) nước Hàn ngang qua việc ông thấy các quan lại đến với vua nhằm tìm kiếm lợi lộc cho riêng họ. Tuy nhiên, theo ông, cái lợi của nhà vua và cái lợi của bề tôi là khác nhau. Điều đó dẫn đến hệ quả, “bầy tôi không ai trung với vua. Cho nên, cái lợi của bầy tôi mà được xác lập thì cái lợi của nhà vua bị tiêu diệt.”[57] Vì thế, bề tôi nào cũng mang ý nghĩ phản vua. Do đó, Hàn Phi đã chỉ ra một cách minh nhiên trong thiên Bát gian (Tám đường gian dối) tám hạng gian thần có thể làm hại đến vua và an nguy quốc gia: bọn chung giường với vua, bọn tả hữu thân cận, bọn cha anh của vua, bọn thỏa lòng ham vui, ham sắc của vua, bọn làm hao tán của công để mua chuộc lòng dân, bọn ăn nói khéo làm mê hoặc vua, bọn tụ tập các hiệp sĩ, kiếm khách để tỏ cái uy của họ, và bọn thờ nước ngoài.[58] Cũng trong thiên Bát kinh (Tám nguyên lý), Hàn Phi trở lại vấn đề này và liệt kê thêm sáu kẻ có thể làm loạn mà nhà vua nên phòng bị và sửa trị: thái hậu, hậu phi, con cháu vua, anh em vua, đại thần, những người nổi tiếng là hiền, được lòng dân.[59] Như thế, nhìn vào bản danh sách liệt kê của Hàn Phi về những kẻ có thể là gian thần, làm loạn vừa nói ở trên, có thể sắp xếp và phân ra làm hai nhóm. Nhóm thứ nhất gồm những quần thần, quan lại. Nhóm thứ hai là những kẻ thân thích với vua. Những người ở hai nhóm này đều tập trung đánh vào những điểm yếu của vua như tình cảm, thị dục,…để làm lung lạc, che giấu, và điều khiển nhà vua. Họ lập bè đảng trong nước, giao kết với nước ngoài, nuôi uy thế để khi đủ mạnh rồi thì lật đổ nhà vua. Đứng trước tình cảnh đó, Hàn Phi đã đề ra tám cách để có thể phòng bị và trừ gian.
Đối với nhóm thứ nhất, cách phòng bị, trừ gian là bổ nhiệm quan lại và giao trách nhiệm cho các quan, thì mẹ vua không thể phóng túng. Nghi lễ thi hành có thứ bậc khác nhau thì hậu phi không so sánh địa vị của mình với hoàng hậu. Quyền thế không chia hai thì con thứ và con trưởng không tranh nhau. Quyền thế không bỏ mất thì anh em không lấn nhà vua. Còn đối với nhóm quan lại, đại thần, cách phòng bị trừ gian là không để cho người dưới hùa về một phe để tránh che giấu vua. Việc ngăn cấm và khen thưởng được thi hành một cách quyết đoán thì những người nổi tiếng và hiền sẽ không thể làm loạn. Còn đối với các quan đại thần, thứ nhất, cần phải nắm con tin, tức bắt giữ những người thân thích, vợ con của họ. Thứ hai, cần phải nắm tinh thần, nghĩa là ban thưởng hậu cho họ về tước lộc. Thứ ba là nắm chắc sinh mạng. Nghĩa là dùng từng nhóm ba nhà, năm nhà để xét và phạt. Đối với người gian thì chặn đứng cái gian của họ bằng lối con tin. Đối với người tham thì cảm hóa họ bằng cách nắm tinh thần của họ. Đối với bọn gian tà thì làm cho chúng khốn bằng cách nắm lấy sinh mạng của chúng. Nếu bậc vua chúa dùng những cách trên mà không được, thì cần diệt trừ họ đi để tránh hậu họa. Và để tránh tai tiếng trong việc diệt trừ, thì cách thức tốt nhất của nhà vua dùng đối với họ là đầu độc.[60] Bên cạnh những hạng người vừa kể ở hai nhóm trên, Hàn Phi còn liệt thêm những hạng người mà bậc quân vương không nên dùng để tránh những hậu họa về sau: hạng khinh tước lộc, hạng đặt lời giả dối trái pháp luật, hạng lánh đời, ở ẩn, chê bai vua, hạng thi ân thu phục kẻ dưới, hạng vì tư lợi mà giao thiệp với chư hầu,[61] hạng quen cũ mà làm việc riêng tư, hạng bỏ chức quan mà thích giao du, hạng người tranh thắng với bề trên, hạng uốn cong pháp luật vì người thân, hạng người đem của công ra bố thí.[62] Như vậy, nhìn vào thuật phòng bị trừ gian của Hàn Phi có thể thể thấy, bậc vua chúa luôn phải có một sự cảnh giác cao độ với mọi hạng người, từ những người thân thích nhất như thái hậu, hậu phi, con cháu, anh em của mình cho đến các bậc đại thần, những người nổi tiếng là hiền, được lòng dân…
4. Thuật vô vi
Thế nào gọi là vô vi?
Khi đưa quan điểm vô vi vào để lý giải và áp dụng cho Thuật trị quốc của mình, Hàn Phi đã có những vay mượn quan điểm vô vi của Lão Tử. Tuy nhiên, Hàn Phi không bê nguyên quan điểm vô vi của Lão Tử vào để trình bày, mà ở đây, bên cạnh việc vay mượn, ông còn có những thêm thắt, sáng tạo rất độc đáo.Tuy nhiên, trước khi đi tìm hiểu Thuật vô vi của Hàn Phi, ở đây xin được phép trình bày vô vi theo Lão Tử là gì?
Trong chương thứ hai của Đạo Đức Kinh, Lão Tử có nói: “Vậy, thánh nhân hành việc bằng vô vi, thi hành giáo hóa bằng vô ngôn, để cho vạn vật nên mà không cản trở, tạo thành mà không chiếm đoạt làm của mình, làm mà không cậy công, công thành mà không ở lại, vì không ở lại, nên không bị bỏ đi”.[63] Theo Lão Tử, “thánh nhân hành việc bằng vô vi”. Mà vô vi ở đây có nghĩa không phải không làm, mà làm theo Đạo. Điều đó có nghĩa, khi thi hành sự giáo hóa thì phải dùng đến cách vô ngôn. Tuy nhiên, vô ngôn không phải là không nói, mà vô ngôn là không nói đến thị phi, thiện ác. Bởi nói thị thì phi dấy lên, nói thiện thì ác dấy lên. Nên “vô ngôn chi giáo” có nghĩa là giáo lý không có giáo điều cố định. Đó là nghĩa thứ nhất của vô vi. “Để cho vạn vật nên mà không cản trở” có nghĩa là để cho vạn vật được yên hàn trong chỗ sinh thành tự nhiên mà không dụng tâm xen vào hay tác động, can thiệp vào sự tự hóa của nó. Đó chính là nghĩa thứ hai của vô vi. “Tạo thành mà không chiếm đoạt làm của mình” có nghĩa là giúp cho vạn vật sống tính bản nhiên của chúng mà không chiếm làm tư lợi. Đó là nghĩa thứ ba của vô vi. “Làm mà không cậy công” là hành động tự nhiên giúp đời mà không tự phụ cho là công riêng của chính mình, không cho rằng nếu không có mình thì thiên hạ không có ai có thể làm được. Đó là nghĩa thứ tư của vô vi. “Công thành không ở lại” nghĩa là nên việc thì lui thân, công việc hoàn thành thì không ở lại để vui hưởng, cậy công, tự mãn. Đó là Đạo trời. Đó chính là nghĩa cuối cùng của vô vi.[64]
Khi đưa vô vi vào trong việc trị quốc, Hàn Phi đã mở rộng và sáng tạo ngang qua việc bổ sung thêm yếu tố Thuật của người cầm quyền. Theo Hàn Phi, Thuật vô vi trước tiên phải là những hành vi cử chỉ, kể cả cái Thế cũng phải kín đáo của kẻ lãnh đạo: “thể hội cái thực chất của đạo vô vi, không cho người ta thấy điều mình làm.”[65] Hay trong thiên Dương quyền (Nêu cao uy quyền), Hàn Phi có nói: “cái quyền không nên lộ ra, bản chất của nó là vô vi… Vì thế, Đạo của bậc thánh nhân là từ bỏ cái khôn ngoan và cái khéo léo… dựa theo cái đạo của Trời, xem xét kỹ lưỡng. Phải hư tâm, yên tĩnh, ở sau người ta, không bao giờ dùng cái khôn của mình.”[66] Như thế, Thuật vô vi dưới nhãn quan của Hàn Phi có thể tóm gọn lại đó là hư tâm, cẩn ngôn, thận hành, và dĩ tĩnh chế động.
Sở dĩ nhà vua phải sử dụng Thuật vô vi của mình là vì bậc thánh nhân nắm bắt lấy cái duy nhất (cái danh) và giữ yên tĩnh, khiến cái danh tự nó ra lệnh, khiến sự việc tự nó được giải quyết. Nếu nhà vua không biểu lộ cái khéo của mình thì người dưới sẽ tỏ lòng ngay thực và đúng đắn. Nhân đó, nhà vua dùng họ, khiến cho họ tự mình chọn lấy công việc, nhân đó mà giao quyền cho họ khiến họ tự mình làm nhiệm vụ. Còn nếu bậc vua chúa ở trên không thần bí thì kẻ dưới sẽ có cách lợi dụng. Việc làm của nhà vua nếu không đúng, thì kẻ ở dưới sẽ căn cứ vào cái nguyên lý bất biến để sửa chữa.[67] Còn nếu “nhà vua để lộ cái vui của mình thì cái đức của mình bị người ta lợi dụng. Nếu nhà vua để lộ cái giận của mình thì cái uy lực của mình bị người ta chia mất. Cho nên bậc vua sáng lời nói bị ngăn cách mà không lọt ra ngoài, được giữ kín không cho người ta biết.”[68]
Trong việc quản trị, thiết nghĩ, một mình nhà vua mà đích thân giám sát công việc của cả hệ thống quan lại thì bất khả, vì không có đủ thời gian và sức lực. Hơn nữa, khi bề trên dùng mắt thì kẻ dưới tô điểm dung mạo, người trên dùng tai thì kẻ dưới sửa dọng nói, người trên dùng trí óc để xét đoán thì kẻ dưới khéo nói, nói răng rờm rà. Chính vì thế, trong việc trị quốc, nhà vua không thể không dùng Thuật vô vi. Một khi nhà vua đã nắm vững và thực hành được Thuật vô vi thì “làm việc hay nghỉ ngơi đều không sai lầm. Hành động nhưng vẫn nhàn nhã.”[69]
Luận bàn
Để chứng minh luận lý tại sao nhà cầm quyền lại dùng Thế để cai trị bách tính, Hàn Phi đi chứng minh việc bản tính con người vốn thích phục tùng quyền lực. Ở đây, để biện luận cho việc tại sao nhà lãnh đạo phải đề phòng và sử dụng Thuật phòng bị, trừ gian, Hàn Phi đã thêm vào nơi bản tính của con người là hám lợi, thích được khen thưởng, sợ bị hại, ghét bị trách phạt như trình bày ở trên. Không ai có thể phủ nhận ở đâu đó trong xã hội vẫn còn có những con người thích đi tìm những điều lợi cho riêng mình. Tuy nhiên, trong cuộc sống không phải tất cả mọi người đều có bản tính hám lợi lộc, sợ bị trách phạt, và con người vì bản tính hám lợi mà loại trừ nhau. Nếu cuộc sống mà con người cứ bám lấy và hành xử với nhau theo quan điểm này thì liệu rằng ai có thể xây dựng được một mối tương quan dựa trên tình thương yêu một cách chân thành và đích thực không? Hay các mối tương quan giữa người với người chỉ mang tính cộng sinh, lợi dụng, và loại trừ? Cho dù sống ở trong bất cứ hoàn cảnh, thời đại nào, thì thế giới vẫn không thiếu những bậc vĩ nhân đã quyên mình để mưa cầu ích lợi cho tha nhân như Mahatma Gandhi, Nelson Mandela, hay Martin Luther King Jr… Hay những con người đã và đang âm thầm phục vụ một cách vô vị lợi nơi các bệnh viện, trung tâm, trại tị nạn… với động lực không gì khác ngoài tình yêu thương tha nhân.
Bàn về tính chính danh, có thể nói, Khổng Tử là người đầu tiên nói về nó. Chính danh theo ông là mọi thứ trong thực tại cần phải cho phù hợp với cái danh nó mang, có nghĩa là đảm bảo sự phù hợp giữa cái danh và cái thực. Mỗi cái danh ở trong xã hội đều mang lấy trong nó những điều kiện bản chất mà chính sự vật mang danh ấy phải kiện toàn cho đúng. Trong xã hội vua phải ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con… Tóm lại, chính danh theo Khổng Tử là muốn các hạng người trong xã hội sống đúng với bản chất và vai trò của họ.[70] Hàn Phi cũng luận bàn và nêu cao tính chính danh. Tuy nhiên, chính danh mà ông đưa ra như đã bàn luận ở trên là để xem xét sự phù hợp giữa danh xưng với thực tế, để cho hễ có danh xưng đó thì buộc phải có sự thực đó.[71] Như vậy, chính danh hay hình danh mà Hàn Phi đề cập chính là Thuật của nhà vua dùng để xem xét giữa công việc với lời nói của họ, và nhà vua dựa vào đó để quản trị và chế ngự quần thần ngang qua việc thi hành thưởng phạt một cách quyết đoán, công minh. Chính danh của Khổng Tử là chính danh giúp cho con người tự ý thức và đào luyện mình để giúp họ sống đúng với bậc sống của họ, ngang qua đó, họ trở nên những người tốt hơn trong xã hội. Chính danh của Khổng Tử là một lối giáo dục được áp dụng cho tất cả mọi thành phần trong xã hội. Chính danh dưới nhãn quan của Hàn Phi trở nên Thuật, thành công cụ để nhà vua chỉ áp dụng cho tầng lớp quan lại. Do đó, chính danh ở đây bị bó hẹp trong khạm vi cả không gian và thời gian.
Nếu nhìn vào bản danh sách liệt kê của Hàn Phi về những thành phần mà nhà vua cần phòng bị và trừ khử thì dường như bản danh sách đó không loại trừ bất cứ ai. Nó được bắt đầu từ những người thân tín nhất là mẹ, vợ con, anh em, cho đến quan lại… Trong việc trị quốc an dân, với người lãnh đạo, việc cảnh giác là một điều tốt và nên có. Điều đó giúp cho họ có được một sự cẩn trọng cần thiết để tránh xảy ra những lỗi lầm không chỉ ảnh hưởng đến chính họ mà còn đến cả quốc gia, bách tính. Lịch sử cũng đã lưu bút không biết bao nhiêu cảnh huống vì bất cẩn mà để lại cảnh nước mất nhà tan hay nhà vua bị bức hại, chèn ép, xã hội loạn lạc. Việt Nam có cảnh Thục Phán An Dương Vương vì bất cẩn mà mất nước, hay hình ảnh các vua thời mạt Lê bị bức hại bởi các chúa Trịnh. Còn ở Trung Quốc cảnh các nhà vua thời Hậu Hán bị bức hại bởi các tham quan như Đổng Trác, Lý Thôi, Tào Tháo… Tuy nhiên, những điển mẫu trên nếu đem so sánh với các trung thần như Chu Văn An, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Bỉnh Khiêm… ở Việt Nam, hay Quan Vân Trường, Gia Cát Lượng… bên Trung Quốc và khắp nơi trên thế giới thì quả như muối bỏ biển. Hơn nữa, trong cuộc sống thường nhật, con người mà luôn sống trong sự đề phòng, lo sợ, ngay cả những người thân cận với mình nhất như cha mẹ, vợ con, anh em, bằng hữu… thì liệu rằng người đó có thực sự cảm thấy được bình an và vui sống bên họ hay không, hay họ chỉ lo xây dựng những bức tường rào kiên cố bằng những định kiến, lo sợ, và đề phòng để rồi đi vào thế giới bên kia trong sự cô độc? Vậy tha nhân ở đây có phải là huyền nhiệm, nên cần đề cao sự cảm thông trong mối tương quan giữa người với người như cái nhìn của Gabriel Marcel và Karl Jasper,[72] hay tha nhân là địa ngục (hell is other people)[73] như cái nhìn của Jean-Paul Sartre?
Khi nhà vua dùng Thuật dụng dân theo nguyên tắc hình danh, nghĩa là cho quan lại trực tiếp trình bày quan điểm của mình, nhà vua chỉ dựa vào quan điểm đó và nhìn trên kết quả mà quyết định việc thưởng phạt, chứ nhà vua không trực tiếp nói ra công việc cho quan lại. Hơn nữa khi xét tuyển quan lại, nhà vua lại không nghe theo lời giới thiệu của quan lại, mà chính mình trực tiếp thẩm vấn để đánh giá năng lực của họ mà giao việc. Và khi giao việc, nhà vua tin tưởng vào người mình giao. Như vậy, có thể nói, đây là một điểm sáng của Hàn Phi trong việc dụng nhân. Ngang qua Thuật dụng nhân, nhà vua sẽ tuyển dụng dược những người có ý tưởng, sáng kiến, những người có năng lực để có thể giúp mình trong việc trị quốc. Điều đó sẽ tránh được hiện tượng “ô dù”, “con ông cháu cha” trong việc tuyển dụng, người tài có cơ hội cống hiến sức mình cho quốc gia, ra sức giúp vua để xây dựng đất nước. Việc để cho cho quan lại chủ động tự trình bày sáng kiến và thực thi công việc, có thể nói đó là một nét tiến bộ trong việc tuyển dụng và quản trị nhân sự của Hàn Phi. Bên cạnh đó, mỗi người chỉ được đảm nhiệm một công việc, không được kiêm nhiệm hay “lấn sân”, can thiệp vào công việc của người khác. Như thế, với chính sách này, quan lại sẽ trở nên chuyên nghiệp hơn trong công việc của mình. Tránh việc quá tải khi mà một người phải kiêm nhiệm nhiều việc khác nhau, ngay cả những việc chưa hẳn là “chuyên môn” của họ… Hơn nữa, mỗi người khi ra làm quan phải khởi đi từ những công việc nhỏ bé trước. Điều đó tạo điều kiện cho quan lại có thời gian, tập làm quen, thích ứng với công việc nơi chốn quan trường vốn đầy những khó khăn và thách đố. Tuy nhiên, bên cạnh những điểm sáng đó, Thuật dụng nhân của Hàn Phi cũng còn đó những giới hạn như sau:
Việc mỗi người chỉ được đảm nhiệm một công việc mà không được phép “lấn sân” hay làm thay, làm thêm việc, dù làm việc đó với tinh thần tự nguyện và kết quả có tốt đẹp như thế nào đi chăng nữa. Cách áp dụng như vậy liệu có quá máy móc và hạn chế đi khả năng cộng tác cũng như tinh thần tự nguyện tương hỗ nơi chốn quan trường; một môi trường vốn rất cần sự tương hỗ, cộng tác? Bên cạnh đó, với cách giao việc của Hàn Phi, tất cả mọi quan lại dù có tài năng mấy đi nữa, thì cũng phải bắt đầu bằng những công việc thấp bé nhất. Bên cạnh mặt tích cực như vừa nói ở trên, thì ở đó cũng có những giới hạn của nó. Có nhiều bậc hiền sĩ tài năng khao khát muốn cống hiến sức lực mình để giúp vua trị quốc an dân, nhưng việc cứ để họ phải “nhẫn nại” leo những bậc thang chức quyền dài lê thê từ chức vụ này đến chức vụ khác, thì liệu có hợp lý không, điều đó chưa kể là trong những hoàn cảnh cần kíp đến khả năng của họ? Như thế, việc sử dụng Thuật dụng nhân của Hàn Phi liệu có công thức và máy móc quá chăng?
Như vừa tìm hiểu ở trên, có thể thấy, vô vi mà Hàn Phi sử dụng khác xa với vô vi của Lão Tử. Lão Tử quan niệm nhà lãnh đạo hành động theo vô vi là hành động nương theo tự nhiên, theo đạo, không can thiệp sâu vào đời sống của nhân dân. Trái lại, vô vi theo Hàn Phi là dùng Thuật để bắt dân cáo gian, can thiệp sâu vào đời sống của dân chúng và quan lại. Hành động theo vô vi của ông là phải biết dùng tâm thuật, phải suy tính, lo lắng nhiều, và nhất là không được đặt niềm tin vào bất cứ một ai. Bên cạnh đó, nhà lãnh đạo phải dụng ý trong mỗi cử chỉ, lời nói, nét mặt. Như vậy, đây đâu phải là vô vi, mà là cực hữu vi vậy! đâu cứ ung dung, nhàn tản, thư thái như Lão Tử.[74]
Nói chung, Thuật trị quốc của Hàn Phi chính là thuật dụng nhân của bậc đế vương. Trong đó, nhà vua phải dùng tâm thuật mà tuyển dụng nhân sự, chế ngự quần thần, phòng bị, và trừ gian ngay cả với những người thân tín nhất. Và trong việc sử dụng Thuật để trị quốc, nhà vua phải thực hiện theo đường lối vô vi. Và để Thuật trị quốc được vận hành một cách thấu đáo, cũng như củng cố cái Thế được vững chãi, nhà vua không thể không dùng đến Pháp.
Chương III
Pháp
1. Pháp là gì?
Khi đi vào tìm hiểu về Pháp trong dòng chảy lịch sử tư tưởng Trung quốc, có thể nói, người đầu tiên đề xuất và đưa Pháp vào áp dụng vào trong việc trị quốc là Pháp gia Thương Ưởng. Thương Ưởng (390 – 338 TCN) vốn là một công tử nước Vệ. Ông là người ham thích tìm hiểu về pháp luật ngay từ thuở thiếu thời. Sau thời gian tìm tòi, nghiên cứu, Thương Ưởng có lòng khao khát muốn đem những gì mình thủ đắc được ra giúp Huệ Vương xây dựng đất nước. Tuy nhiên, khi thấy Huệ Vương xem thường mình, ông bèn chạy sang nước Tần mà giúp đỡ Tần Hiếu Công và nhanh chóng được vua Tần trọng dụng. Từ đó, ông bắt đầu vận dụng và thượng tôn Pháp trong đường lối trị quốc. Theo ông, Pháp là những mệnh lệnh do nhà vua đề ra. Những mệnh lệnh đó phải được áp dụng chung cho mọi người một cách triệt để. Chính vì thế, khi đánh giá vai trò của Pháp trong việc trị quốc, Thương Ưởng cho rằng Pháp là công cụ hữu hiệu nhất để bậc quân vương có thể cai trị muôn dân.[75] Là một người đi sau, vừa lại là một Pháp gia, nên Hàn Phi đã kế thừa và phát triển những quan điểm về Pháp của Thương Ưởng.
Hàn Phi đã lấy lại quan điểm về Pháp của Thương Ưởng khi cho rằng Pháp là những mệnh lệnh do nhà vua ban bố một cách rõ ràng và nó phải được áp dụng không ngoại trừ bất cứ một cá nhân nào: “Pháp luật là mệnh lệnh ban bố rõ ràng nơi cửa công. Hình phạt chắc chắn đối với lòng dân, thưởng cho những kẻ cẩn thận giữ pháp luật, nhưng phạt những kẻ làm trái lệnh. Đó là điều những bầy tôi phải tuân theo.”[76] Và trong việc xây dựng và định hình nên nền tư tưởng của một quốc gia, nhà vua cần phải biết đưa những pháp lệnh do mình xây dựng nên thành những chuẩn mực tối hậu.
2. Pháp luật phải trở thành những chuẩn mực tối cao
Một nền tư tưởng của một quốc gia lý tưởng dưới nhãn quan của Hàn Phi, đó là pháp luật phải trở thành những tiêu chuẩn, chuẩn mực tối cao, và được thống nhất chung cho cả nước. Pháp luật là những tiêu chuẩn, chuẩn mực tối cao, và thống nhất trước tiên thể hiện ở chỗ nó phải là tiêu chuẩn cho ngôn và hành của tất cả quan lại và bách tính. Hễ những ngôn từ và hành vi mà không theo đúng pháp lệnh thì phải cấm. Vì vậy, nước có một vị vua sáng thì không dùng văn học trong sách vở, mà chỉ lấy pháp luật để giáo hóa dân, không có lời nói của các bậc tiên vương mà lấy quan lại làm thầy dạy pháp luật.[77] Chính vì thế, điều đầu tiên một vị vua cần làm là thống nhất tư tưởng, cấm “tư học” (là các học thuyết của Nho, Mặc, Lão, Trang,…), cấm việc tranh biện. Bên cạnh đó, ông cũng vạch ra những mâu thuẫn giữa các học thuyết lưu hành đương thời, những điều mà các vị vua chúa không biết phán đoán đều tin theo. Những mâu thuẫn đó dễ dàng đưa dẫn đến hệ quả là vua quan và dân chúng hoang mang, chia rẽ. Một khi trong dân chúng có sự hoang mang thì sẽ dẫn đến việc họ không còn tin vào chính quyền. Chính quyền khó sai khiến, chia rẽ thì nó sẽ trở nên yếu.
Để chứng minh cho những luận điểm trên, Hàn Phi đã đưa ra một bằng chứng rất cụ thể: Trong việc mai táng người thân, đạo Mặc thì chủ trương tiết kiệm. Tang lễ, mùa đông thì mặc y phục mùa đông, mùa hạ thì bận y phục mùa hạ, chịu tang ba ngày,… Tuy nhiên, đạo Nho thì hoàn toàn ngược lại. Họ chủ trương “khánh kiệt nhà cửa để lo việc chôn cất”, chịu tang ba năm,…. Vì thế, Nho Mặc trái ngược nhau. Nếu khen Mặc là tiết kiệm thì phải lên án Nho là xa xỉ. Nếu khen Khổng Tử là hiếu thì phải chê Mặc Tử là có tội. Dẫu các vị vua chúa đương thời thấy đạo Nho và đạo Mặc một bên hiếu, bên sơ, một bên xa xỉ, bên tiết kiệm, nhưng lại vẫn coi trọng cả hai. Chính thế, theo Hàn Phi, cái “tư học” và các lời biện luận hỗn tạp và mâu thuẫn đó các bậc vua chúa đều tin theo, nên kẻ sĩ trong thiên hạ không lấy điều gì làm tiêu chuẩn, hành động thì không có chủ trương nhất định, nên xã hội loạn lạc là chuyện đương nhiên.[78] Vì thế, cần phải lấy pháp luật làm tiêu chuẩn tối thượng, duy nhất và bài bác tất cả mọi học thuyết cũng như những biện luận khác. Bên cạnh đó, trong thiên Ngụy sử (Sử dụng sai) ông cũng nhấn mạnh thêm rằng: “pháp luật và mệnh lệnh là để gạt bỏ điều riêng tư; pháp luật và mệnh lệnh được thi hành thì con đường riêng tư bị bỏ. Cái riêng tư là cái làm rối loạn pháp luật.”[79] Vì thế, với Hàn Phi, nền tư tưởng của một quốc gia chỉ độc tôn pháp luật. Pháp luật phải là những tiêu chuẩn tối cao mà mọi người dân đều phải học biết lấy ngang qua thầy dạy là các quan lại. Còn các nền tư tưởng khác như Khổng, Mặc, Lão, Trang,… đều cần bị nghiêm cấm luận bàn nơi dân chúng, các cơ sở học đường cũng như chốn quan trường. Và để pháp luật có thể phát huy hiệu năng tối đa của nó, thì nhà lập pháp (nhà vua) phải xây dựng một hệ thống pháp luật phải hợp với bối cảnh của thời đại, các điều lệnh phải trở nên hợp thời, đơn giản, rõ ràng, và thống nhất.
3. Pháp luật phải hợp thời, đơn giản, rõ ràng, cố định, và thống nhất
Dưới nhãn quan của Hàn Phi, khi nhà vua ban hành bất cứ một pháp lệnh nào, điều quan trọng nhất là những pháp lệnh đó không được đi ngược lại với bối cảnh, xu thế của thời đại đó. Sở dĩ pháp luật phải hợp thời, vì theo ông, lịch sử luôn biến chuyển, thời thế không ngừng đổi thay. Trong thiên Ngũ đố (Năm bọn sâu mọt) ông cho rằng những kẻ ở đời Ân, đời Thương mà học theo cách đào sông của đời trước thì ắt bị vua Thang và vua Vũ chê cười. Cho nên kẻ ở đời này mà khen đạo của Nghiêu, Thuấn, Thang, Vũ thì ắt bị thánh nhân mới mẻ chê cười.[80] Chính vì thế, Hàn Phi nhận thấy, việc ổn định xã tắc quốc gia không thể dùng những đường lối “Đức trị” như Nho gia, “Kiêm ái” theo Mặc gia, hay “Vô vi nhi trị” của Đạo gia mà việc trị quốc phải dựa vào sự biến đổi của thời thế. Nhà làm luật cũng không thể lấy quan điểm của cổ nhân mà xét cho thời nay. Nhà vua không mong tu sửa theo thời xưa, không bắt chước lấy những phép tắc, quy chuẩn bất biến. Trái lại, nhà làm luật phải xét tình hình hiện tại để tùy nghi mà tìm ra biện pháp thích hợp. Luận bàn thế sự thì phải dựa vào tình hình, bối cảnh cụ thể của đời mình mà chuẩn bị biện pháp cho thích ứng với bối cảnh đó. Vì thế, pháp luật thay đổi theo thời thì trị; việc cai trị theo thời thì có công lao. Do đó, thời thế đổi thay mà cách cai trị không thay đổi thì sinh ra loạn. Nên bậc “thánh nhân” an dân thì pháp luật theo thời mà thay đổi, và sự ngăn cấm theo khả năng mà đổi thay.[81] Như vậy, trước khi ban hành bất cứ một mệnh lệnh nào cho toàn dân trong quốc gia của mình, nhà làm luật (nhà vua) phải xem xét kỹ tình hình, bối cảnh của thời thế trong xã hội đó để đưa ra những mệnh lệnh chuẩn xác, hợp thời, để tránh việc những mệnh lệnh của vua đi ngược lại với xu thế của thời đại. Nếu các mệnh lệnh của nhà vua ban ra không phù hợp với xu thế của thời đại không những nó không đem lại hiệu quả; mà trái lại, nó còn sinh ra sự xáo trộn và loạn lạc trong dân chúng. Nhưng để pháp luật có thể phát huy một cách có hiệu quả, thì bên cạnh pháp luật phải hợp thời, thì nó phải trở nên đơn giản, rõ ràng, cố định, và thống nhất ngõ hầu người dân và bề tôi có thể dễ dàng hiểu biết và nắm bắt nó.
Trong một quốc gia rộng lớn, chia thành nhiều vùng khác nhau, nếu pháp luật không đi đến thống nhất thì sẽ dễ tạo nên sự hỗn loạn. Cho nên, pháp luật thống nhất có nghĩa là pháp luật phải có giá trị cho cả nước tuân theo, không loại trừ bất cứ một vùng miền nào. Pháp luật thống nhất còn có nghĩa là khi ban bố một luật mới, thì giá trị của luật cũ sẽ trở nên vô hiệu để tránh sự mập mờ cho kẻ gian lợi dụng.[82] Bên cạnh việc pháp luật phải đảm bảo được tính thống nhất, pháp luật còn phải đảm bảo được tính cố định. Điều này có nghĩa, pháp luật không được thay đổi liên tục. Luật mới được ban hành trong thời gian ngắn thì nhà vua lại ban hành một luật mới khác ngược lại. Điều đó dễ dẫn đến xáo trộn, kẻ gian manh dễ lợi dụng. Bất cứ luật lệ nào được ban hành, thì nó phải được soạn ra sao cho thật minh bạch, rõ ràng, dễ hiểu, và tường tận. Bởi vì, nếu pháp luật tĩnh lược quá, mỗi người sẽ hiểu mỗi cách. Điều đó dẫn đến hệ quả sinh ra nhiều việc kiện tụng tranh chấp. Pháp luật toàn những điều cao viễn, thâm sâu mà chỉ có những kẻ sĩ sâu sắc mới có thể sở đắc được thì không thể đưa ra làm lệnh, những điều mà chỉ có những người hiền mới có thể thi hành thì không thể dùng làm pháp luật, vì dân chúng không phải tất cả đều sâu sắc, bách tính không phải tất cả đều là hiền sĩ. Như vậy, Pháp luật mà sáng tỏ, dễ hiểu thì bên trong không có cái lo sinh biến loạn.[83] Tuy nhiên, nếu pháp luật đảm bảo được tính hợp thời, thống nhất, cố định, và rõ ràng, nhưng sẽ thiếu đi giá trị và hiệu quả, nếu như nó thiếu đi tính công bình và nghiêm khắc.
4. Pháp luật phải công bình và nghiêm khắc
Dưới cái nhìn của Hàn Phi, để xây dựng và đảm bảo được quốc thái dân an, thì pháp luật phải đảm bảo được tính công bình và nghiêm khắc. Trong thiên Gian kiếp thí thần (Bọn bầy tôi gian dối, ức hiếp, và giết nhà vua), Hàn Phi có nói: trị nước thì phải nêu rõ pháp luật đúng đắn, nghiêm khắc để chữa cái loạn của dân chúng, trừ bỏ cái họa trong thiên hạ. Để có thể chữa cái loạn của dân, loại bỏ đi những mầm họa trong quốc gia, thì điều tiên quyết, khi ban hành bất cứ pháp lệnh nào, thì chúng phải đảm bảo được tính công bình và nghiêm minh. Tính công bình và nghiêm minh của pháp luật ở đây được hiểu là mọi người trong quốc gia, ngoại trừ một mình nhà vua, thì mọi người đều ngang nhau trước pháp luật. Điều đó được thể hiện ở chỗ, nếu quan lại đang giữ chức vụ lớn và quan trọng đến mấy đi chăng nữa, hay ngay cả đến những người thân cận nhất với nhà vua như mẫu hậu, hoàng hậu, phi tần, con cháu, hay là tầng lớp thứ dân… mà phạm tội, thì đều phải chịu sự trừng phạt theo như luật định. Bởi vì, khi pháp luật đảm bảo được tính nghiêm minh của nó thì kẻ mạnh không lấn át kẻ yếu, kẻ đông không xúc phạm số ít, người già cả được thỏa lòng, người trẻ và cô độc được trưởng thành.[84]
Dưới dọng văn này của Hàn Phi, có thể nhận ra rằng, mọi người, chẳng kể giàu sang hay hèn kém, quan lại hay thứ dân, đều bình đẳng trước pháp luật. Và thứ pháp luật mà ông chủ trương xây dựng và vận dụng là một thứ pháp luật đảm bảo cho xã hội được công bình, bênh vực kẻ yếu thế, cô thân.
Luận bàn
Trong việc xây dựng đường lối trị quốc của mình, Hàn Phi đã nhận thấy được vai trò quan trọng của luật pháp trong việc xây dựng và duy trì ổn định trật tự xã hội. Với ông, đều nòng cốt trong việc xây dựng nên một quốc gia hùng cường là phải dựa vào luật pháp. Nếu nhà vua xây dựng được một hệ thống luật pháp vững mạnh và minh bạch thì xã hội mới ổn định. Xã hội ổn định chính là tiền đề căn cốt để xây dựng đất nước giàu mạnh, làm cho dân chúng được an bình và hạnh phúc. Quan điểm này của Hàn Phi không chỉ đúng cho chính thời đại và đất nước của ông, mà thiết nghĩ nó còn đúng cho mọi quốc gia và thời đại.
Tiêu chuẩn về tính hợp thời của pháp luật mà Hàn Phi vừa liệt kê ở là một tiêu chuẩn mà mỗi nền chính trị, mỗi cơ quan lập pháp cần tham khảo và học hỏi. Như Hàn Phi lập luận, thời thế luôn đổi thay, nếu hệ thống pháp luật không kịp thay đổi với thời thế thì dễ trở nên lạc hậu, thiếu cập nhật. Gần hai ngàn năm sau, Chính triết gia Hegel (1770 – 1831) cũng đã nhấn mạnh lại vai trò thiết yếu khi xét đến tình hợp thời trong việc xây dựng nên nền luật pháp của một quốc gia. Tuy nhiên, ở đây, Hegel bàn định nó một cách cụ thể, rõ nét, và có phần mở rộng hơn Hàn Phi khi cho rằng: Những luật lệ, những định chế dân sự phải hợp thời với khí hậu, chất lượng của đất đai, vị trí, diện tích của mỗi nước, với nghề nghiệp chính của mỗi cư dân… Bên cạnh đó, chúng phải phù hợp với tín ngưỡng của dân chúng, với các xu hướng, sự sung túc, số lượng, nền thương nghiệp, phong tục tập quán.[85] Thiết nghĩ, cách đây khoảng tám mươi năm về trước, chắc hẳn chẳng có một quốc gia nào đề cập đến vấn đề luật an ninh mạng. Tuy nhiên, hiện nay, hầu chắc những điều khoản về luật an ninh mạng đã có trong hiến pháp của mỗi quốc gia… Trong nền lập pháp của một quốc gia, nếu những điều khoản của luật được ban hành không bắt kịp được với những xu thế của thời đại, hay khi nhà làm luật ban hành những điều luật đi ngược lại với các xu thế của thời đại, vậy làm sao mà pháp lập đóng vai trò hướng dẫn người dân trong đời sống vốn hay bị tác động của những ngoại cảnh, những xu hướng xã hội, nhất là trong bối cảnh “toàn cầu hóa” như ngày nay? Như vậy, hiến pháp của mỗi quốc gia, ngoài những giá trị cốt lõi của nó tùy thuộc riêng vào mỗi nền văn hóa, chính trị, xã hội, con người… thì luôn cần phải biết điều chỉnh, uốn nắm để cho nó bắt kịp với những biến chuyển của thời đại.
Học thuyết của Hàn Phi xây dựng nên một cơ cấu chính trị theo chủ nghĩa Pháp trị, kể cả người ra luật và thi hành luật là nhà vua, phải chí công vô tư, không được chịu sự ảnh hưởng của những vấn đề cảm xúc, tình cảm. Với một nền chính trị thượng tôn pháp luật và mọi người đều công bình trước pháp luật, điều đó góp phần thúc đẩy và thăng tiến sự công bình trong đời sống xã hội. Dường như, đó là một bước tiến rất lớn trong dòng chảy nền tư tưởng triết học Trung Quốc đương thời. Bởi vì, vào thời Khổng Tử, việc áp dụng luật pháp dành cho tầng lớp thứ dân và tầng lớp quý tộc có sự khác biệt: “Lễ bất hạ thứ nhân, hình bất thượng đại phu”. Nghĩa là trong giới quí tộc, có kẻ nào phạm pháp thì theo pháp điển bất thành văn mà dàn xếp; còn đối với dân thường, họ mới dùng hình mà chỉ họ được biết thôi.[86] Dưới cái nhìn này của Khổng Tử, tầng lớp quý tộc được ưu ái và bảo hộ hơn so với tầng lớp bình dân. Vậy đâu là tính công bình của pháp luật? Tuy nhiên, nếu xem xét kỹ hơn về điểm này có thể thấy, xã hội dưới nhãn quan của Hàn Phi dường như là một xã hội nô lệ toàn dân. Chỉ có ông Vua là chủ, mọi người trong xã hội này đều bình đẳng, nhưng bình đẳng ở cái thân phận nô lệ, tôi tớ. Pháp luật do chính một mình vua đặt ra và xét cho cùng chỉ để phục vụ quyền lợi của người lãnh đạo (vua).[87] Nhà vua vượt ra ngoài khuôn khổ quy định của luật pháp. Vì thế, sự bình đẳng pháp luật mà Hàn Phi chủ trương là sự bình đẳng của nô lệ trước pháp luật đối với nhau. Suy cho cùng, một xã hội xóa bỏ đẳng cấp do ông đề xướng cũng chỉ để làm nổi bật thân phận nô lệ của mọi người. Chứ nó không phải là lý thuyết sự bình đẳng của mọi người trước pháp luật như hiến pháp của hầu hết quốc gia hiện nay.
Quan điểm thống nhất về tư tưởng của Hàn Phi cũng cần phải có một sự duyệt xét lại. Trong một xã hội mà người dân chỉ biết mỗi tư tưởng là những điều khoản của pháp luật và các chủ trương của chính quyền, còn các tư tưởng của các trường phái khác đều bị cấm đoán, người dân không được học cái gì ngoài luật pháp do các quan lại dạy bảo. Như thế, phải chăng nhà cai trị đang thực thi chính sách ngu dân, hay đi theo hướng tâm lý tuyên truyền kiểu chính Tần Thủy Hoàng đã áp dụng sau khi thống nhất Trung Quốc, hay cái cách những nhà lãnh đạo của chế độ Cộng sản Trung Quốc đã áp dụng ở Trung Quốc trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa Giai cấp Vô sản diễn ra trong khoảng thời gian 1966 – 1976? Hay luật pháp cũng chỉ là công cụ cho nhà cai trị để đảm bảo và xây dựng vững chắc cho cái Thế của họ khi mà ông nắm trong tay quyền lập pháp, hành pháp, và tư pháp? Thiết nghĩ, một chế độ nhà nước tốt, một hệ thống pháp luật tốt phải là một hệ thuống luôn biết đảm bảo cho người dân được tự do suy tư và trình bày những quan điểm, ý kiến của mình. Hơn nữa, những quan điểm của Nho, Lão, Mặc… cũng là những hệ thống tư tưởng của các nhà hiền triết đề ra với mục đích nhằm giáo hóa con người và xã hội ngõ hầu con người được trở thành người hơn, để cho xã hội, quốc gia ngày càng thịnh vượng hơn. Bên cạnh đó, phải chăng, nếu một nhà nước thực sự là nhà nước vì dân và do dân là một nhà nước luôn biết tôn trọng và cổ võ việc học của mọi người, để rồi người dân được trưởng thành về mặt suy tư, tư tưởng, chứ không phải là một nhà nước mang tính kiểm duyệt, định hướng, và cấm đoán về mặt tư tưởng đối với người dân. Hẳn mỗi người vẫn còn nhớ, chính nhờ sự tự do về tư tưởng trong thời Xuân Thu, Chiến Quốc mà đã khai sinh ra một thời đại như các sử gia hay tư tưởng gia sau này thường gọi là “bách gia chư tử”. Một thời đại “trăm hoa đua nở”, các tư tưởng gia nở rộ như Khổng Tử, Lão Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử, Trang Tử…
Mở rộng vấn đề
Từ quan điểm Pháp trị của Hàn Phi nhìn về đường lối Nhân trị của Lão Tử
Về niên đại của Lão Tử, cho đến ngày nay, các học giả vẫn đang còn có nhiều ý kiến trái chiều. Tuy nhiên, hầu hết họ đồng ý rằng, Lão Tử gần như đương thời với Khổng Tử. Như vậy, có thể nói, Lão Tử sống vào cuối thời Xuân Thu, đầu thời Chiến Quốc. Thời kỳ này được xem là một trong những thời kỳ loạn lạc nhất trong lịch sử Trung Quốc. Cũng như Khổng Tử, nhằm cứu vãn tình thế đang nguy khố đó, Lão Tử cũng đề ra đường lối trị quốc của mình ngang qua việc xây dựng nên hình mẫu bậc thánh nhân trị quốc bằng đường lối Duy Đạo thị tùng, Vô vi nhi trị, và Dĩ dân vi bản, hầu xây dựng một xã hội an bình và thái hòa.
1. Thế nào là thánh nhân?
Có lẽ chứng kiến những vị vua đương thời đức mỏng tài hèn, thường sa vào con đường chơi bời mà quên đi vai trò lãnh đạo của mình như vua Lỗ Chiêu Công, Tề Cảnh Công… dẫn đến chiến tranh loạn lạc, bách tính cùng cực, cơ hàn. Nên với Lão Tử, để có thể xây dựng được một xã hội quốc thái dân an, đề ra được một đường lối trị quốc chắc chắn và tốt đẹp, trước hết, phải xây dựng nên hình mẫu lãnh đạo lý tưởng, mà ông gọi là bậc thánh nhân.
Thánh nhân là một thuật ngữ được lặp đi lặp lại ba mươi hai lần trong tác phẩm Đạo Đức Kinh của Lão Tử. Trước hết, theo Lão Tử, thánh nhân phải là người sở đắc được Đạo và Đức. Vậy có thể nói, thánh nhân là người đồng với Đạo và đồng với Đức. Như một điều tất yếu, thánh nhân phải là một người nắm lấy vị trị lãnh đạo hay “thiên tử” hầu có thể trị vì được thiên hạ.[88] Để có thể an dân trị quốc, bậc thánh vương hay thánh nhân trước hết phải dựa trên những nền tảng căn cốt là Duy Đạo thị tùng, Vô vi nhi trị, và Dĩ dân vi bản.
2. Đường lối trị quốc của bậc thánh nhân
2.1 Duy Đạo thị tùng – Chỉ theo Đạo mà thôi
Để có thể đi sâu vào tìm hiểu quan điểm Duy Đạo thị tùng, trước tiên, xin được đi sâu vào tìm hiểu đặc tính của Đạo theo tư tưởng của Lão Tử. Khi nói về đặc tính của Đạo, chương hai lăm trong Đạo Đức Kinh cho rằng: “Lớn thì ra đi, ra đi thì đi xa, đi xa thì trở lại. Cho nên Đạo lớn, trời lớn, đất lớn, con người lý tưởng cũng lớn. Trong cõi đời có bốn thứ lớn, mà con người lý tưởng ở một trong những thứ lớn đó. Người noi theo đất, đất noi theo trời, trời noi theo Đạo, Đạo noi theo năng lực tự mình.”[89] Vậy, theo Lão Tử, đặc tính của Đạo ở đây chỉ về Đạo bắt chước tự nhiên.
Thuật ngữ tự nhiên ở đây không bị bó hẹp trong phạm vi nói về thế giới tự nhiên, nhưng nội hàm của nó còn được mở rộng đến quy luật, phép tắc của tự nhiên. Chính vì thế, bắt chước tự nhiên nghĩa là khi bậc thánh nhân làm bất cứ việc gì để trị quốc, thì không nên can thiệp quá vào sự vật, nhưng cần thuận theo quy luật của chính sự vật, nghĩa là cần vô vi. Mà tự nhiên ở đây được liên hệ tới Đạo, một thực tại tối cao, chứ không noi theo cá nhân nào. Như vậy, trong Đạo có một năng lực lớn được phát ra, do sự bộc phát tự nhiên ấy mà có sự tạo thành vũ trụ vạn vật. Vì thế, khi thánh nhân nhận ra chân lý này mà nương theo thì sẽ noi theo Đạo. Biết noi theo Đạo, thì tự nơi thánh nhân sẽ có hành vi vô vi và tính khiêm hạ tự phát giống như Đạo vậy.[90] Như vậy, bậc thánh nhân muốn làm cho quốc thái dân an, trăm họ được thái bình, trước hết phải Duy Đạo thị tùng và Đạo pháp tự nhiên.
Từ quan điểm Đạo pháp tự nhiên ở trên, Lão Tử đi đến quan điểm thánh nhân phải lấy Đạo đến với thiên hạ. Chương sáu mươi, Lão Tử có nói: “Trị nước lớn giống như nấu cá tươi nhỏ. Lấy Đạo đến với thiên hạ, thì quỷ không thiêng. Chẳng những quỷ không thiêng mà thần không hại người. Chẳng những thần không hại người mà thánh nhân cũng không hại người. Nay cả hai không cùng làm hại, cho nên đức về cùng nhau vậy.”[91] Vậy ở đây có thể hiểu, quốc gia có nhiều dân với đủ thứ hạng người và mọi cấp bậc trình độ khác nhau. Nên người cai trị nếu đặt ra nhiều thứ luật lệ phiền hà, rối rắm, chi li, thì xã hội dễ bị xáo trộn, dân dễ loạn lạc như cá nhỏ sẽ trở nên nhừ nát khi bị đảo lộn, xào xáo nhiều trong quá trình nấu nướng. Do đó, bậc thánh nhân khi cai trị nước lớn thì chỉ cốt sao đưa ra những quy tắc cần thiết để hướng dẫn con dân của mình đi theo những quy luật tự nhiên. Đó chính là thuật cai trị của thánh nhân khi lấy Đạo đến với thiên hạ; là con đường vận dụng quy luật của Đạo vào tự nhiên. Chính khi thánh nhân lấy Đạo đến với dân, thì chẳng những quỷ không thiêng mà thần không hại người, và thánh nhân có Đạo ngự trị nơi mình cũng không hại người.[92] Cho nên Đức của quỷ thần, Đức tiềm tại trong dân, và Đức của thánh nhân sẽ chung về một mối, tạo nên sự nhất nguyên trong Đạo. Nhờ đó, dân nước được an bình, thịnh trị.[93] Chính vì thế mà trong chương sáu lăm, Lão tử cho rằng “lấy mưu trí mà trị nước, ấy là làm hại nước; không lấy mưu trí mà trị nước, ấy là làm phúc cho nước”.[94] Vậy phải chăng ở đây Lão Tử chủ trương đường lối nhà lãnh đạo thiếu trí lực? Hay dân chúng khó trị là vì họ sở đắc được nhiều mưu trí?
Thiết nghĩ không phải vậy. Không phải tại người dân đa mưu lắm mẹo, trá ngụy, mà thực ra do người trên dùng trá ngụy mà trị dân. Dùng thuật, mưu kế, trá ngụy mà tác vi trị quốc, thì kết quả tất nhiên là phát động dục vọng của dân chúng. Người trên ắt phải canh bị, đề phòng. Bách tính thấy được những mánh khóe và mưu mẹo của người trên dùng để áp đảo họ, dĩ nhiên họ sẽ phải tìm những mánh khóe và thủ đoạn để trốn tránh, che đậy. Như thế, trên dưới tranh đua nhau vào con đường trá ngụy, tất xã tắc sẽ đi vào con đường gian trá.[95] Vì thế, chính khi thánh nhân thủ đắc được Đạo và đồng với Đức, thì đáng được xướng danh là bậc Huyền Đức. Bậc Huyền Đức giống bản tính của Đạo, thủ đắc năng lực của Đức, nên bậc Huyền Đức cùng hòa đồng với thiên nhiên, vạn vật, trở về với Đạo là Mẹ của muôn loài. Cho nên bậc thánh nhân chỉ dùng Đạo để trị quốc.
Vì thủ đắc được Đạo và Đức, trở nên bậc Huyền Đức, nên khi cai trị đất nước, thánh nhân khéo léo bắt chước và hiện thực Đạo. Do đó, trong chương sáu sáu, Lão Tử cho rằng:
Sông biển sở dĩ có thể làm vua trăm hang bởi khéo ở dưới; cho nên có thể làm vua trăm hang. Vì vậy thánh nhân muốn ở trên dân ắt dùng lời nói nhún nhường, muốn ở trước dân ắt để thân mình ra sau. Vì vậy thánh nhân ở trên mà dân không thấy nặng, ở trước mà dân không thấy hại. Vì thiên hạ vui vẻ đẩy lên mà không chán. Bởi không tranh giành, cho nên thiên hạ chẳng ai có thể cùng tranh với được.[96]
Vậy đường lối bắt chước và hiện thực Đạo ở đây là đường lối của sự khiêm hạ, phục vụ, muốn ở trên dân ắt dùng lời khiêm tốn, muốn ở trước dân thì phải lùi lại phía sau, coi nhẹ thân mình mà đề cao sinh mạng của bách tính. Như thế, bậc thánh nhân lãnh đạo đất nước bằng đường lối thuận theo vô vi của Đạo, không ham thích địa vị, không màng danh lợi, thì sẽ chẳng ai tranh giành. Đất nước được yên ổn, trăm họ được vui hưởng thái bình. Vậy thuật trị nước, xử thế của thánh nhân không gì khác hơn điều mà Lão Tử đề cập ở chương ba lăm: “Nắm được Dáng mạo lớn, thì thiên hạ đi với. Đi với mà chẳng thiệt hại, còn được an bình tốt đẹp.”[97] Hình ảnh Dáng mạo lớn mà Lão Tử sử dụng ở đây chính là Đạo.[98] Thánh nhân chỉ cần nắm lấy Đạo lớn là thiên hạ tới quy phục. Thiên hạ tới quy phục mà chẳng thiệt hại, trái lại còn được vui hưởng thái bình, an vui.
2.2 Vô vi nhi trị – Cai trị bằng vô vi
Thánh nhân là hiện thân của Đại Đạo và Huyền Đức để trị vì quốc gia, dân tộc. Để làm tốt được điều đó, thì bên cạnh việc trị quốc bằng con đường Duy Đạo thị tùng, thì thánh nhân cũng phải thi hành theo đường lối Vô vi nhi trị. Theo như quan điểm vô vi của Lão Tử đã được đề cập ở phần trước đó,[99] thánh nhân cai trị thiên hạ bằng vô vi nghĩa là không can thiệp quá đáng vào bách tính trăm họ, không nên bày vẽ nhiều việc, sưu cao thuế nặng, nhưng trái lại để cho dân chúng được tự do phát triển. Bày vẽ thêm việc thì dân chúng sẽ đâm ra khổ sở, lầm than, và bất mãn. Điều này dễ đưa đến việc chống đối. Vì thế mà trong chương bảy lăm, một lần nữa ông khẳng định: “Dân đói là vì trên thu nhiều thuế, nên dân đói. Dân khó trị là vì trên dùng hữu vi, nên dân khó trị”.[100] Nên muốn cho dân được yên ổn, không chống đối, làm loạn, thì thánh nhân cần phải tránh làm những điều phiền toái, vẽ việc, tránh sưu cao thuế nặng.
Trong chương hai hai, Lão Tử cho rằng:
Cái cong thì trọn vẹn, quẹo thì thẳng, trũng thì đầy, hư nát thì mới mẻ; ít thì được, nhiều thì mê. Vì vậy thánh nhân ôm giữ Một, làm khuôn mẫu cho thiên hạ. Không tự tỏ mình cho nên sáng, không tự nhận là phải cho nên rực rỡ. Không tự kể công cho nên có công, không tự khoe mình cho nên đứng đầu. Này chỉ không tranh giành, cho nên thiên hạ chẳng có ai có thể tranh giành với chính mình được.[101]
Như vậy, thánh nhân cai trị bách tính thì phải ôm giữ lấy “Một”, nghĩa là ôm giữ lấy Đạo để làm khuôn mẫu cho bách tích. Thánh nhân phải bắt chước theo Đạo; nghĩa là hành động theo vô vi. Hành động theo vô vi nghĩa là hành động một cách tự nhiên, không tự tỏ mình, chấp nhận mình là hèn mọn, không tự nhận là phải, thấy việc đáng thi hành thì thi hành, làm xong không tự đắc, kể công, cho mình là đứng hàng đầu. Vô vi là không tranh giành.[102] Vì thánh nhân không tranh giành, nên thiên hạ không có ai tranh giành với mình được. Thánh nhân không tự cao nhận mình là khôn, nên không ai có thể tranh khôn cùng thánh nhân.
Tiếp đến, trong chương hai chín, Lão Tử tiếp tục khẳng định đường lối Vô vi nhi trị của mình bằng những câu: “Hòng muốn lấy thiên hạ mà trị, ta thấy điều đó không được. Thiên hạ là khí cụ thần diệu, không thể trị được. Trị thì bại, nắm giữ thì mất. Phàm người ta hoặc tiến hành, hoặc thuận theo, hoặc thở, hoặc thổi, hoặc mạnh, hoặc yếu, hoặc ngồi xe, hoặc té ngã. Vậy nên thánh nhân bỏ cái quá, bỏ cái nhiều, bỏ cái vượt mức.”[103] Dưới nhãn quan của Lão Tử, Thiên hạ là một khí cụ thần diệu. Khí cụ thần diệu có nghĩa là một đám đông dân chúng phức tạp với hàng vạn, hàng triệu người với đủ các thành phần như già trẻ, gái trai, mạnh yếu, tật nguyền…Trong đó có tầng lớp tri thức, kẻ thất học, hạng ương ngạnh cứng đầu, hay tiêu cực thoái chí,… nên không thể đem ra một phương thế (hữu vi) chung để cai trị dân chúng được. Vì vậy, cai trị thiên hạ bằng đường lối hữu vi thì sớm hay muộn cũng sẽ thất bại, có nắm giữ thì cũng sẽ có ngày bị vụt mất.[104] Nên, thánh nhân bỏ cái quá, cái nhiều, cái vượt mức. Điều đó có nghĩa, thánh nhân trị vì quốc gia dân tộc bằng đường lối vô vi, không tham lam của cải tiện nghi, không xa xỉ phung phí, bỏ tính bá chủ, hiếu thắng. Như vậy, thiên hạ sẽ thuần phục thánh nhân.
2.3 Dĩ dân vi bản – Lấy dân làm gốc
Thánh nhân cai trị đất nước ngoài việc dựa trên hai điều cốt yếu là Duy Đạo thị tùng và Vô vi nhi trị, thì Lão Tử còn đề cập đến một phương thế hữu hiệu khác cho bậc thánh nhân trị quốc là Dĩ dân vi bản (Lấy dân làm gốc). Với Lão Tử, đường lối trị quốc Lấy dân làm gốc như là điều cốt lõi cho sự tồn vong của quốc gia, dân tộc.[105]
Khi nói về việc trọng dân, lấy dân làm gốc, chương bốn chín Lão Tử có nói:
Thánh nhân không có lòng cố chấp, mà lấy lòng trăm họ làm lòng của mình. Đối với người tử tế ta xử tử tế; đối với người chẳng tử tế; ta cũng xử tử tế, thế là thật tử tế. Đối với người thành tín, ta xử thành tín; đối với người chẳng thành tín, ta cũng xử thành tín, thế là thật thành tín. Thánh nhân ở với thiên hạ, thu liễm, rụt rè, cai trị thiên hạ bằng tấm lòng tế nhị, kín đáo, không phô trương. Trăm họ đều chăm chú tai mắt vào, thánh nhân tươi cười hồn nhiên như trẻ thơ.[106]
Như vậy, bậc thánh nhân không cố chấp, thành kiến, lấy lòng thiên hạ, bách tính làm lòng của mình. Thánh nhân hòa đồng với lòng của nhân dân, chiều theo ý muốn, phong tục, và sự ưa ghét của dân mà trị. Cho nên, lòng dân chúng hướng về đâu, thánh nhân cũng điều thuận theo lòng dân mà thi hành như vậy. Thánh nhân không thể là một nhà độc tài, chuyên chế như các vị vua đương thời. Trái lại, thánh nhân xem ý dân là ý Trời, luôn đề cao và lấy nguyện vọng của dân trong hoạch định chính sách cai trị.[107] Từ quan điểm đó mà chương ba chín, Lão tử có đề cập: “sang lấy hèn làm gốc, cao lấy thấp làm nền”.[108] Có thể vì hiểu được chân lý đó, cho nên ngày xưa các vương hầu tự nhận mình là côi cút, đức mỏng, tài hèn. Hay ngày nay, các nhà cầm quyền cũng tự nhận mình là đầy tớ, người phục vụ của nhân dân.[109] Họ ý thức được vai trò nền tảng, gốc rễ của nhân dân đối với sự an bình, thịnh trị của quốc gia, dân tộc.
Đối chiếu hai quan điểm trị quốc của Hàn Phi Tử và Lão Tử
Thứ nhất, Hàn Phi không những không đề cao hay nhấn mạnh phải xây dựng nên một vị quân vương đức độ để có thể lãnh đạo quốc gia, mưu ích cho xã tắc, mà ông còn cho rằng nhà lãnh đạo khuôn mẫu là người tuyệt đối không được có lòng hiền từ, khoan dung, và đức độ. Đường lối trị quốc của Hàn Phi đòi hỏi một nhà vua phải độc đoán, hà khắc, và khéo léo trong việc sử dụng Thuật, Pháp ngõ hầu chỉ để củng cố cho quyền vị (Thế) của mình. Quan điểm trị quốc của Lão Tử đã khắc phục được những hạn chế này nơi Hàn Phi trong việc xây dựng nên khuôn mẫu nhà lãnh đạo vị thánh nhân – quân vương trị quốc, với đường lối cai trị Duy Đạo thị tùng, Vô vi nhi trị, và Dĩ dân vi bản. Thiết nghĩ, khuôn mẫu bậc thánh nhân trị quốc theo nhãn quan của Lão Tử là một khao khát của con người ở muôn thế hệ trong dòng chảy của lịch sử nhân loại đối với vị lãnh đạo của mình. Hình ảnh vị quân vương kiểu mẫu này phảng phất đâu đó nơi hình ảnh vị lãnh đạo của Mạnh Tử (371 – 289 TCN). Đó là người giữ mình khiêm cung, ăn xài tiết kiệm, lễ độ với bề tôi, lấy thuế dân có chừng mực.[110] Hay khuôn mẫu nhà lãnh đạo là quân vương – triết gia sau một khoảng thời gian dài được huấn luyện, và cai trị xã hội ngang qua đường lối nhân trị của Plato.[111] Hầu chắc, nếu quốc gia nào có được một nhà lãnh đạo như vậy thì quốc gia đó được thái bình, thịnh trị, bách tính được no ấm, hạnh phúc.
Thứ hai, cái hay của qua điểm xây dựng nên bậc thánh nhân lãnh đạo với đường lối cai trị bằng vô vi thể hiên ngang qua cách thức lãnh đạo khiêm tốn, không cố chấp, thành kiến, lấy lòng thiên hạ, bách tính làm lòng của mình. Những điều đó hầu chắc sẽ tránh được các xu hướng lãnh đạo độc tài, chuyên chế, ích kỷ, và tàn ác mà nền chính trị như Hàn Phi đề xướng dễ mắc phải như những trường hợp của Tần Thủy Hoàng (Trung Quốc), Nero (La mã), Adolf Hitler (Đức Quốc Xã)…
Thứ ba, tư tưởng Lấy dân làm gốc của Lão Tử là một nền tư tưởng rất cần được tôn quý và đem ra thực hành không chỉ cho chính xã hội của ông mà còn cho tất cả mọi xã hội ở mọi nơi và mọi thời. Với đường lối nhà lãnh đạo phải lấy nhân dân làm gốc, biết tôn trọng và yêu mến nhân dân hoàn toàn đi ngược lại với tư tưởng của Hàn Phi. Hàn Phi chủ trương đường lối thượng tôn quyền vị, đặt ông vua vào một vị trí độc tôn bất khả sánh ví. Xã hội mà Hàn Phi chủ trương xây dựng dường như là một xã hội nô lệ tập thể cho nhà vua. Tất cả thứ dân cũng như quan lại đều phải phục vụ cho lợi ích của nhà vua. Dưới góc nhìn của Lão Tử, khi nhà lãnh đạo biết thực thi đường lối Lấy dân làm gốc, thì chính dân chúng sẽ được vui hưởng trong một xã hội an hòa và thái bình. Mọi người dân đều được tôn trọng và đề cao xứng với phẩm giá của con người. Khi thực hiện được điều này cách triệt để, những nhà lãnh đạo sẽ tránh được những hành vi không đáng xảy ra như xem thường dân chúng, tham nhũng, vơ vét của công để biến thành của tư, chà đạp và bóc lột nhân dân…
Thứ tư, khi xét lấy các mối tương quan của con người trong xã hội, Lão Tử duờng như không khuôn đúc, bó hẹp tư tưởng của mình như Hàn Phi khi chỉ xét lấy mối quan hệ giữa con người với nhau trong xã hội. Với Lão Tử, mối tương quan của con người không chỉ bó hẹp trong tương quan giữa con người với nhau, nhưng nó còn được mở rộng chiều kích với thiên nhiên, vạn vật. Cho nên, tư tưởng lãnh đạo Chỉ theo Đạo mà thôi và Cai trị bằng vô vi là một đường lối lãnh đạo đề cao và tôn trọng “mẹ thiên nhiên”, “mái nhà chung” – trái đất của chúng ta. Tôn trọng quy luật tự nhiên của vạn vật. Bên cạnh đó, quan điểm này của Lão Tử khắc phục được những hạn chế trong quan điểm của Hàn Phi khi ông chủ trương nhà lãnh đạo phải thi hành Thuật vô vi nhưng thực ra là hành động cực hữu vi. Một đường lối chính trị can thiệp sâu và thích định hướng, lèo lái vào mọi lĩnh vực, khía cạnh của cuộc sống.
Thứ năm, quan điểm xây dựng mô hình bậc thánh nhân lãnh đạo với đường lối Chỉ theo Đạo mà thôi, Cai trị bằng vô vi, và Lấy dân làm gốc của Lão Tử không chỉ bó hẹp trong địa hạt của lĩnh vực chính trị. Nhưng thiết nghĩ, đó còn là một mô hình, đường lối hữu hiệu để có thể áp dụng tốt cho các tổ chức xã hội phi chính phủ, các công ty, tập đoàn, và đâu đó còn có thể áp dụng ở cả các tổ chức tôn giáo với đường lối xây dựng nhà lãnh đạo sở đắc được Đức và đồng với Đạo hầu quản trị các nhân viên của mình bằng con đường tôn trọng và đối thoại. Thiết nghĩ, đó cũng chính là khuôn mẫu nhà lãnh đạo mà chính Đức Kitô hằng ao ước: “Anh em biết: thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Giữa anh em thì không được như vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em.”[112] Còn đường lối trị quốc khắt khe của Hàn Phi dường như chỉ nhắm đến các vấn đề của xã hội và nó thích hợp để giải quyết nhanh những vấn đề trong bối cảnh một xã hội loạn lạc ngõ hầu đem lại một hiệu quả nhanh chóng, chứ thực sự không phù hợp trong cảnh thời bình.
Cuối cùng, đã mang kiếp nhân sinh, hầu chắc mỗi người ai cũng mong muốn bản thân có được một cuộc sống ấm êm, yên hàn, hạnh phúc, có sự dư đủ về của cải vật chất lẫn tinh thần. Bên cạnh bản tính hướng thiện, hướng tha như cái nhìn của Mạnh Tử, thì ở đâu đó trong sâu thẳm mỗi người, vẫn còn đó những khuynh hướng của lòng ích kỷ, hẹp hòi, lòng khao khát chiếm hữu, hưởng thụ theo cái nhìn của Tuân Tử… Hơn nữa, mỗi quốc gia là một tập thể gồm nhiều thành phần với nhiều độ tuổi, nghề nghiệp, cấp bậc, giới tính khác nhau. Bên cạnh đó, còn có sự khác biệt giữa trình độ nhận thức, cách suy nghĩ… Nên trong vệc tổ chức và điều hành xã hội, việc xây dựng và ban hành những quy chuẩn đạo đức, những luật lệ cụ thể, rõ ràng, và chặt chẽ như cái nhìn của Hàn Phi là điều tối cần thiết để hướng dẫn và sửa dạy người dân. Cho nên, nếu áp dụng quan điểm của Lão Tử khi cho rằng bậc thánh nhân trị nước thì hạn chế tối đa việc đưa ra những mệnh lệnh, luật lệ, có chăng cũng chỉ đưa ra một vài quy tắc căn bản để hướng dẫn dân chúng, liệu rằng điều này có thực sự thấu đáo? Lịch sử loài người đã minh chứng, ngay từ thuở ban đầu có tổ chức xã hội loài người, thì con người đã lập ra những quy ước chung để giúp nhau chung sống. Và xã hội càng tiến bộ, thì các bộ luật càng được trở nên hoàn thiện và chặt chẽ hơn. Điều đó sẽ giúp tránh được những lợi dụng sơ hở của kẻ gian manh, hay tránh việc mỗi người thi hành luật pháp mỗi kiểu vì hiểu sai do luật lệ quá giản lược, chung chung… Bên cạnh đó, mục đích của luật là giúp hướng dẫn con người sống tốt hơn. Nên việc chủ trương nhà lãnh đạo phải hạn chế đưa ra những quy định, mệnh lệnh, và luật lệ, chỉ đưa ra một vài quy tắc căn bản theo như cái nhìn của Lão Tử là chưa thực sự thấu đáo. Nhất là trong bối cảnh xã hội loạn lạc như thời của ông. Có chăng đường lối trị quốc của Lão Tử chỉ phù hợp cho một xã hội thái bình, văn minh, trình độ dân trí cao?
Kết luận
Có thể nói, đóng góp lớn nhất của Hàn Phi cho nền tư tưởng của lịch sử Trung Quốc nói riêng và lịch sử nhân loại nói chung, đó là việc ông xây đựng được một hệ thống lý luận về một cơ cấu xã hội và cách vận hành của một nhà lãnh đạo hết sức chặt chẽ và sinh động.
Nền tảng luận lý để xây dựng nên một nền triết thuyết quản trị xã hội của Hàn Phi được bắt nguồn từ chính cái nhìn có phần tiêu cực của ông về bản tính con người. Theo ông, bản tính con người vốn thích phục tùng quyền lực chứ không mấy người được cảm hóa vì đạo nghĩa. Bên cạnh đó, ông cũng cho rằng bản tính con người là hám lợi, thích được khen thưởng, ghét bị trách phạt. Vì lẽ đó, Hàn Phi chủ trương xây dựng một khuôn mẫu nhà lãnh đạo phải luôn biết cảnh giác và đề phòng, ngay cả đối với những người thân tín nhất của mình.
Với quan điểm thượng tôn quyền vị, chính sách tập quyền, một mình nhà vua phải nắm lấy quyền lập pháp, hành pháp, và tư pháp. Học thuyết của Hàn Phi dường như mở đường cho việc định hình và xây dựng nên một chế độ xã hội mới trong nền lịch sử Trung Quốc thời bấy giờ. Đó là xây dựng nên một chế độ xã hội Quân Chủ Chuyên Chế. Chính Tần Thủy Hoàng là người đã áp dụng một cách triệt để đường lối của ông để chấm dứt thời kỳ chế độ Phong Kiến tồn tại hàng ngàn năm trước đó ở Trung Quốc mà thành lập nên nền chế độ Quân chủ Chuyên chế vào năm 221 TCN. Dẫu trải quan những biến cố thăng trầm cùng với những triều đại khác nhau, nhưng chế độ Quân chủ chuyên chế như định hướng của Hàn Phi vẫn kéo dài mãi cho đến 1912, biến cố được đánh dấu bằng việc hình thành nên nhà nước Trung Hoa Dân Quốc.
Trong việc trị quốc, Nếu như Thận Đáo là người đề cao Thế, Thân Bất Hại lại quan niệm Thuật là yếu tố cơ bản, còn Thương Ửng đề cao Pháp. Ngang qua việc tiếp thu những tư tưởng của các Pháp gia đi trước, Hàn Phi đã xây dựng nên một hệ thống quan điểm chính trị của mình bằng việc kết hợp cả ba yếu tố Thế, Pháp, Thuật. Trong đó, Thế được xem là công vụ và phương tiện tạo nên vị thế và sức mạnh cho nhà cai trị. Pháp là nội dung của chính sách cai trị được thể hiện qua những mệnh lệnh và luật lệ. Thuật là phương pháp và cách thức để thể hiện nội dung chính sách cai trị của nhà cầm quyền. Dưới nhãn quan của Hàn Phi, trong đường lối cai trị đất nước, ba yếu tố Thế, Thuật, Pháp phải được thống nhất, không thể tách rời. Chúng là công cụ bất ly thân của nhà vua trong việc quản trị quốc gia.
Trong việc xây dựng và quản trị quốc gia cũng như các tổ chức xã hội… những quan điểm của Hàn Phi vẫn còn đó những giá trị mà con người có thể học hỏi và áp dụng chúng một cách sáng tạo dựa trên từng bối cảnh xã hội, chính trị, văn hóa vùng miền, và con người khác nhau. Nhưng cũng không thể phủ nhận những giới hạn, khiếm khuyết trong quan điểm chính trị của ông. Tuy nhiên, những giới hạn đó có thể được khắc phục và bổ sung ngang qua việc học hỏi những quan điểm khác nhau của các tư tưởng gia như Khổng Tử, Mạnh Tử, Mặc Tử, Tuân Tử… nhất là quan điểm trị quốc dựa trên nền tảng xây dựng nên khuôn mẫu bậc thánh nhân với đường lối Duy Đạo thị tùng, Vô vi nhi trị, và Dĩ dân vi bản của Lão Tử.
Dẫu đã trải qua hơn hai ngàn năm, thế nhưng quan điểm trị quốc của Hàn Phi vẫn đang còn được sử dụng theo những cách thức khác nhau ở một số quốc gia hay các tổ chức xã hội, đặc biệt là ở một số quốc gia ở Phi châu và Á châu… Ở những nơi mà nhà vua hay một cá nhân, tổ chức đảng phái vẫn đang nắm lấy quyền lãnh đạo quốc gia với việc giữ lấy trong tay các quyền lập pháp, hành pháp, và tư pháp để an dân, trị quốc.
Tài liệu tham khảo
Feizi, Han. Basic Writings. Translated by Watson Burton. New York: Columbia Universtiy Press, 2003.
G.W.F.Helgel. Các Nguyên Lý Của Triết Học Pháp Quyền. Translated by Bùi Văn Nam Sơn. TP. Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Tri thức, 2010.
lan, Fung Yu -. A History of Chinese Philosophy. Translated by Derk Bodde. Princenton: Princenton University Press, 1983.
Lê, Nguyễn Hiến. Lịch Sử Trung Quốc. Hà Nội: Nhà xuất bản Văn Hóa, 1997.
—. Luận Ngữ và Khổng Tử. Hà Nội: Nhà xuất bản Văn Học, 1995.
Montesquieu. Bàn Về Tinh Thần Pháp Luật. Translated by Hoàng Thanh Đạm. Hà Nội: Nhà xuất bản Lý luận Chính trị, 2006.
Nguyễn Hiến Lê và Giản Chi. Hàn Phi Tử. Hà Nội: Nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin, 2003.
Pines, Yuri. Dao Companion to the Philosophy of Han Fei. Edited by Paul R. Goldin. Philadelphia: University of Pennsylvania, 2013.
Plato. The Republic of Plato. Translated by Allan Bloom. New York: A division of Harper Collins Publishers, 1991.
Sartre, Jean-Paul. No Exit and Three Other Plays. Translated by Stuart Gilbert. New York: Adivision of Random House, 1989.
Stumpf, Samuel Enoch. Lịch Sử Triết Học và Các Luận Đề. Translated by Đỗ Văn Thuấn và Lưu Văn Hy. Hà Nội: Nhà xuất bản Lao Động, 2004.
Tử, Khổng. Luận Ngữ. Translated by Đoàn Trung Còn. Huế: Nhà xuất bản Thuận Hóa, 2006.
Tử, Lão. Đạo Đức Kinh. Translated by Nguyễn Duy Cần. TP. Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Trẻ, 2015.
—. Lão Tử Đạo Đức Kinh Giải Luận. Translated by Lý Minh Tuấn. TP. Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Phương Đông, 2010.
Tử, Mạnh. Tứ Thư Ngũ Kinh – Tập Thượng. Translated by Đoàn Trung Còn. Huế: Nhà xuất bản Thuận Hóa, 1996.
Tuấn, Lý Minh. Tứ Thư Bình Giải. Hà Nội: Nhà xuất bản Tôn Giáo, 2011.
Vụ, Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng. Kinh Thánh. Hà Nội: Nhà xuất bản Tôn giáo, 2011.
zi, Lao. Dao De Jing. Translated by Moss Roberts. California: University of California Press, 2001.
[1] Nguyễn Hiến Lê, Lịch Sử Trung Quốc (Hà nội: Nhà xuất bản Văn Hóa, 1997), 62.
[2] Nguyễn Khuê, Khổng Tử Chân Dung, Học Thuyết, và Môn Sinh (Tp. Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Phương Đông, 2012), 454.
[3] Fung Yu – lan, A History of Chinese Philosophy, Trans. Derk Bodde (Princenton: Princenton University Press, 1983), 188.
[4] Ibid., 113
[5] Ibid., 299
[6] Hàn Phi, Hàn Phi Tử, trans. Phan Ngọc (Đà Nẵng: Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2020), 6.
[7] Nguyễn Hiến Lê và Giản Chi, Hàn Phi Tử (Hà Nội: Nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin, 2003), 63.
[8] Hàn Phi, Hàn Phi Tử, , trans. Phan Ngọc, 337.
[9] Ibid., 336 – 337
[10] Ibid., 97
[11] Ibid., 339
[12] Ibid., 394
[13] Ibid.
[14] Ibid., 394 – 395
[15] Ibid., 97
[16] Ibid., 327
[17] Yuri Pines, Dao Companion to the Philosophy of Han Fei, editor. Paul R. Goldin (Philadelphia: University of Pennsylvania, 2013), 67.
[18] Hàn Phi, Hàn Phi Tử, , trans. Phan Ngọc, 111.
[19] Ibid., 91
[20] Ibid., 379
[21] Ibid., 46
[22] Fung Yu – lan, A History of Chinese Philosophy, 286.
[23] Hàn Phi, Hàn Phi Tử, , trans. Phan Ngọc 379.
[24] Ibid., 425
[25] Ibid., 396
[26] Ibid., 368
[27] Ibid., 368 – 369
[28] Ibid., 380
[29] Ibid., 346
[30] Ibid., 45
[31] Han Feizi, Basic Writings, trans. Burton Watson (New York: Columbia University Press, 2003), 19.
[32] Ibid., 29
[33] Ibid., 48-50
[34] Lý Minh Tuấn, Tứ Thư Bình Giải (Hà Nội: Nhà xuất bản Tôn Giáo, 2011), 1283.
[35] Hàn Phi, Hàn Phi Tử, trans. Phan Ngọc, 298.
[36] Montesquieu, Bàn Về Tinh Thần Pháp Luật, trans. Hoàng Thanh Đạm (Hà Nội: Nhà xuất bản Lý luận Chính trị, 2006), 92 – 93.
[37] Fung Yu – lan, A History of Chinese Philosophy, 302.
[38] Ibid,. 114
[39] Nguyễn Hiến Lê, Luận Ngữ và Khổng Tử (Hà Nội: Nhà xuất bản Văn Học, 1995), 37.
[40] Ibid., 81
[41] Ibid., 266
[42] Ibid., 152
[43] Nguyễn Hiến Lê và Giản Chi, Hàn Phi Tử, 56 – 57
[44] Hàn Phi, Hàn Phi Tử, trans. Phan Ngọc, 345.
[45] Ibid., 329
[46] Ibid., 46
[47] Ibid., 14
[48] Ibid., 49
[49] Han Feizi, Basic Writings, trans. Burton Watson, 36.
[50] Ibid., 15
[51] Hàn Phi, Hàn Phi Tử, trans. Phan Ngọc, 118.
[52] Ibid., 409
[53] Ibid., 50
[54] Ibid., 116
[55] Ibid., 94
[56] Fung Yu – lan, A History of Chinese Philosophy, 286.
[57] Hàn Phi, Hàn Phi Tử, trans. Phan Ngọc, 215.
[58] Ibid., 58-60
[59] Ibid., 381
[60] Ibid., 381-382
[61] Ibid., 45
[62] Ibid., 372
[63] Lão Tử, Đạo Đức Kinh, trans. Nguyễn Duy Cần (TP. Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Trẻ, 2015), 45.
[64] Ibid., 46 – 47
[65] Hàn Phi, Hàn Phi Tử, trans. Phan Ngọc, 312.
[66] Ibid., 52- 54
[67] Han Feizi, Basic Writings, trans. Burton Watson, 38.
[68] Hàn Phi, Hàn Phi Tử, trans. Phan Ngọc, 385.
[69] Ibid., 54
[70] Khổng Tử, Luận Ngữ, Trans. Đoàn Trung Còn (Huế: Nhà xuất bản Thuận Hóa, 2006), 198.
[71] Fung Yu – lan, A History of Chinese Philosophy, Trans. Derk Bodde, 325.
[72] Samuel Enoch Stumpf, Lịch Sử Triết Học và Các Luận Đề, trans. Đỗ Văn Thuấn & Lưu Văn Hy (Hà Nội: Nhà xuất bản Lao Động, 2004), 394-395.
[73] Jean-Paul Sartre, No Exit and Three Other Plays, trans. Stuart Gilbert (New York: Adivision of Random House, 1989), 49.
[74] Nguyễn Hiến Lê và Giản Chi, Hàn Phi Tử, 331.
[75] Fung Yu – lan, A History of Chinese Philosophy, Trans. Derk Bodde, 319.
[76] Hàn Phi, Hàn Phi Tử, trans. Phan Ngọc, 345.
[77] Ibid., 400
[78] Ibid., 406 – 407
[79] Ibid., 362
[80] Ibid., 390
[81] Ibid., 426
[82] Ibid., 346
[83] Ibid., 374 – 376
[84] Ibid., 98
[85] G.W.F.Hegel, Các Nguyên Lý Của Triết Học Pháp Quyền, trans. Bùi Văn Nam Sơn (TP. Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Tri thức, 2010), 119.
[86] Nguyễn Hiến Lê, Luận Ngữ và Khổng Tử, 584.
[87] Hàn Phi, Hàn Phi Tử, trans. Phan Ngọc, 17-18.
[88] Lao Zi, Dao De Jing, trans. Moss Roberts (California: University of California Press, 2001), 121.
[89] Lão Tử, Lão Tử Đạo Đức Kinh Giải Luận, trans. Lý Minh Tuấn, 168.
[90] Ibid., 170-173
[91] Ibid., 370
[92] Lao Zi, Dao De Jing, trans. Moss Roberts,151 – 152.
[93] Lão Tử, Lão Tử Đạo Đức Kinh Giải Luận, trans. Lý Minh Tuấn, 371 – 373.
[94] Ibid., 401
[95] Lão Tử, Đạo Đức Kinh, trans. Nguyễn Duy Cần, 334 – 335.
[96] Lão Tử, Lão Tử Đạo Đức Kinh Giải Luận, trans. Lý Minh Tuấn, 407.
[97] Ibid., 224
[98] Lao Zi, Dao De Jing, trans. Moss Roberts, 100.
[99] Trình bày ở phần Thuật vô vi, trang 25 – 26.
[100] Lao Zi, Dao De Jing, trans. Moss Roberts, 453.
[101] Lão Tử, Lão Tử Đạo Đức Kinh Giải Luận, trans. Lý Minh Tuấn, 153.
[102] Ibid., 153 – 157
[103] Ibid., 192
[104] Ibid., 193 – 194
[105] Ibid., 259
[106] Ibid., 307
[107] Ibid., 308
[108] Ibid., 254
[109] Ibid., 259
[110] Mạnh Tử, Tứ Thư Ngũ Kinh – Tập Thượng, trans. Đoàn Trung Còn (Huế: Nhà xuất bản Thuận Hóa, 1996), 155.
[111] Plato, The Republic of Plato, trans. Allan Bloom (New York: A division of Harper Collins Publishers, 1991), 153 – 154.
[112] Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ, Kinh Thánh (Hà Nội: Nhà xuất bản Tôn giáo, 2011), 2171.