Ảnh từ Internet

  1. THIÊN CHÚA VÀ MẶC KHẢI

Chương vừa rồi chúng ta đã xem xét thực tại của ơn cứu độ, Thiên Chúa ban tình yêu tha thứ cho con người nhằm hòa giải con người với Ngài. Trong chương này chúng ta sẽ xem xét cách hiểu của Công Giáo về mặc khải. Mặc khải đơn giản có nghĩa là sự thông ban chính mình và thông ban ý định của Thiên Chúa cho tạo vật của Ngài. Chúng ta đã bàn về việc con người cần và tìm kiếm Thiên Chúa. Nhưng đức tin của Kitô hữu được đặt nền trên niềm tin Thiên Chúa tự thông ban chính mình cho chúng ta. Thiên Chúa cũng đang tìm kiếm chúng ta. Điều này có nghĩa là Thiên Chúa đã đi bước trước và tìm cách để nói với loài người. Nhưng Thiên Chúa thực hiện công việc này như thế nào?

 

Phản tỉnh cá nhân và thảo luận

Đâu là những cách thức Thiên Chúa có thể thông truyền với chúng ta ngày hôm nay?

 

  1. THÔNG TRUYỀN: CON NGƯỜI VÀ THIÊN CHÚA

Chúng ta hãy bắt đầu bằng cách xem xét cách thức con người truyền thông cho nhau. Truyền thông không có nghĩa là nói nhiều lời, nhưng là chia sẻ chính mình. Tôi có thể nói về nhạc rock nếu tôi muốn, nhưng thực sự tôi không thông truyền với nó. Để chia sẻ chính mình với một ai, thì người đó phải mở ra để chấp nhận và hiểu tôi. Người bạn thân nhất của tôi là người vốn thật sự “hòa hợp” với tôi. Tôi có thể chia sẻ chính mình với người bạn thân ấy và người ấy thường hiểu tôi. Bạn bè có thể nối kết với nhau theo cách thức những người xạ lạ không thể có được.

Bây giờ chúng ta hãy áp dụng điều này cho việc Thiên Chúa truyền thông với chúng ta. Đối với Thiên Chúa để làm điều này, nơi chúng ta phải có một điều gì đó có thể mở ra để đón nhận sự truyền thông ấy. Dường như con người có một lợi thế đặc biệt trong điều này. Chúng ta mở ra với sự thông truyền của Thiên Chúa theo cách thức mà những tạo vật khác không thể (ít nhất trong mức độ hiểu biết của chúng ta). Đâu là sự khác biệt? Rất đơn giản, chúng ta là con người. Chúng ta có “bản ngã”. Trong mức độ hiểu biết của chúng ta, những tạo vật còn lại không có điều này. Bản ngã cho phép chúng ta đi vào tương quan với người khác một cách sâu xa. Bản ngã này cũng cho phép chúng ta tương quan với chính mình. Chúng ta hỏi: “Tôi là ai? Tôi muốn làm gì với cuộc sống của tôi? Điều gì thật sự quan trọng?” Trái đất, thực vật, cây cối, và con chó Rover của tôi không thể làm được điều này. Con người là loài duy nhất có khả năng yêu thương lẫn nhau và chia sẻ chính mình với người khác. Đây là điều cần thiết để Thiên Chúa chia sẻ và thông truyền với chúng ta, vì Thiên Chúa là tình yêu.

Điều này nghe có vẻ rất trừu tượng, nhưng rất quan trọng. Con người được tạo nên với khả năng biết yêu thương. Chính khả năng này cho phép chúng ta “nghe được” những gì Thiên Chúa tự thông ban chính Ngài cho. Nếu điều này đúng, thì mọi người ít nhất đều có khả năng để mở ra lắng nghe được lời Thiên Chúa.

Nhưng Thiên Chúa nói như thế nào? Thiên Chúa có giọng nói không? Có lẽ cách tốt nhất để trả lời cho vấn nạn này là Thiên Chúa nói với chúng ta qua chúng ta. Nói cách khác, Thiên Chúa không nói trực tiếp với con người. Ngài truyền đạt qua sáng tạo và tạo vật của Ngài. Ngài truyền đạt qua vẻ đẹp của tự nhiên, qua biến cố em bé sinh ra, qua tình yêu giữa người với người, qua khả năng suy tư của chúng ta, qua lương tâm, qua những ý tưởng, qua sách vở, thơ ca, qua sự tốt lành và quảng đại của chúng ta. Quả thật, Thiên Chúa luôn truyền đạt qua công trình sáng tạo của Ngài.

 

Phản tỉnh cá nhân và thảo luận

 

Đã từng có thời khắc nào bạn nghĩ rằng Thiên Chúa đã “bày tỏ” với bạn? Hãy mô tả kinh nghiệm đó cách đầy đủ. Điều gì đã xảy ra? Bạn đã cảm thấy điều gì?

 

  1. THIÊN CHÚA MẶC KHẢI TRONG ĐỨC GIÊSU KITÔ

Nhiều người nghĩ rằng trong quá khứ (trong thời gian Kinh Thánh đang được hình thành), Thiên Chúa đã từng truyền đạt trực tiếp với con người. Sau đó Ngài đã không làm như thế nữa. Ví dụ, nhiều người mường tượng Thiên Chúa đã đọc từng lời cho Môsê viết Mười Điều Răn: “O.K., Môsê. Điều răn thứ nhất: Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi; ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta.” Đây là một ý niệm quá đơn sơ về mặc khải. Mười Điều Răn chắc chắn được linh ứng bởi Thiên Chúa. Nhưng linh ứng này đến qua trực giác, khôn ngoan, cũng như qua cầu nguyện của Môsê.

Người Kitô hữu tin rằng, Thiên Chúa vẫn thông truyền cho toàn thể nhân loại, nhưng thông truyền trọn vẹn trong và qua Đức Giêsu. Tuy nhiên, Đức Giêsu đã xuất hiện ở một nơi chốn cụ thể. Ngài đến trong một dân tộc và dân tộc ấy thừa hưởng lời hứa của Thiên Chúa. Câu chuyện về Đức Giêsu chỉ có ý nghĩa trong ánh sáng của lịch sử dân Thiên Chúa, Dân Do Thái, vì Thiên Chúa của Đức Giêsu cũng là Thiên Chúa của Ápraham, Môsê, Đavít và các ngôn sứ.

 

Phản tỉnh cá nhân và thảo luận

 

Nếu Thiên Chúa truyền đạt một thông điệp cho thanh thiếu niên ngày hôm nay, bạn nghĩ Thiên Chúa sẽ nói điều gì? Bạn có thể giúp phổ biến thông điệp đó như thế nào?

  1. KINH THÁNH VÀ TRUYỀN THỐNG

Câu chuyện về mặc khải của Thiên Chúa cho Ítraen là dân của Người và qua Đức Giêsu là Con của Ngài được tìm thấy trong Kinh Thánh. Mọi thảo luận về mặc khải của Thiên Chúa luôn đòi hỏi việc khảo sát Kinh Thánh, là Lời của Thiên Chúa. Kinh Thánh có một vai trò độc tôn và hàng đầu trong sự hiểu biết của Kitô giáo về mặc khải của Thiên Chúa. Tuy nhiên, Kinh Thánh không phải là nguồn mặc khải duy nhất cho Kitô hữu. Vì lời Thiên Chúa là lời sống động vang lên cho từng thế hệ. Kitô hữu thuộc mọi thế hệ có nhiệm vụ phải đào sâu và bổ túc sự hiểu biết của mình về mặc khải của Thiên Chúa trong Đức Kitô. Đây là vai trò của “truyền thống”. Truyền thống không đơn giản là những ý niệm, những nghi lễ hay những công thức được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, nhưng đúng hơn đó là những giải thích và hiểu biết có tính liên tục về mặc khải của Thiên Chúa. Cả Kinh Thánh và Truyền Thống là nguồn mặc khải: Thiên Chúa trong và ngang qua Đức Kitô và Thánh Thần.

 

Phản tỉnh cá nhân và thảo luận

 

Đâu là một vài truyền thống về Giáng Sinh trong gia đình bạn? Những truyền thống này mang lại ý nghĩa cho ngày hôm nay như thế nào? Đâu là những truyền thống về Giáng Sinh bạn muốn sáng tạo ra cho gia đình bạn trong tương lai?

 

  1. HIỂU KINH THÁNH

Một vài người quyết định sẽ cố gắng đọc để hiểu Kinh Thánh. Họ cầm quyển Kinh Thánh lên và bắt đầu với trang thứ nhất và cố gắng đọc tuần tự cho tới trang cuối cùng. Họ thường không đi tiến xa được. Lý do là vì họ giả định Kinh Thánh là một quyển sách vì thế bạn nên đọc nó giống như những quyển sách khác: từ đầu cho đến kết. Đây là một ý tưởng tồi vì quả thật Kinh Thánh không phải là một quyển sách. Nó là nhiều quyển sách. Những quyển sách này được viết trong thời gian hơn một ngàn năm. Quyển sách này không nhất thiết phải theo trình tự thời gian và lô-gích của quyển kế tiếp. Tắt một lời, nó có thể rất lộn xộn. Dẫu vậy, Kinh Thánh vẫn là quyển sách bán chạy số một trong số những quyển sách bán chạy nhất. Người ta vẫn mở nó ra khi cần được giúp đỡ, và khi tìm kiếm nguồn gợi hứng. Nó vẫn là trái tim của đức tin Kitô giáo với tư cách là Lời của Thiên Chúa.

Có hai cách khác nhau (mặc dù có liên quan với nhau) để đọc Kinh Thánh: cách thứ nhất, đọc với tính tò mò và khả năng hiểu biết của một học giả nhằm tìm hiểu ý nghĩa của những quyển sách; và cách thứ hai là đọc với tâm hồn rộng mở và kính tôn của một tín hữu nhằm lắng nghe Lời Chúa nói với tôi trong cuộc sống của mình. Trong chương này chúng ta hy vọng sẽ làm rõ hai cách đọc này.

 

Phản tỉnh cá nhân và thảo luận

 

Có bao giờ bạn đọc Kinh Thánh không phải vì những yêu cầu của một lớp học tôn giáo chưa? Nếu có, tại sao bạn làm vậy? Nếu chưa, tại sao bạn không làm vậy?

  1. NHỮNG CÁCH CHÚ GIẢI TRÁI NGƯỢC NHAU

Không phải mọi Kitô hữu đều giải thích Kinh Thánh theo cùng một cách thức. Về cơ bản, có hai cách giải thích Kinh Thánh. Cách giải thích thứ nhất là cách giải thích theo chủ nghĩa duy văn tự. Những người theo chủ nghĩa duy văn tự tin rằng Kinh Thánh “nói cái gì thì có nghĩa là vậy” Nói cách khác, họ giải thích Kinh Thánh theo mặt chữ. Nếu Kinh Thánh nói rằng Thiên Chúa sáng tạo thế giới trong sáu ngày, thì quả thật thế giới đã được tạo trong sáu ngày. Nếu Kinh Thánh nói rằng mặt trời đứng yên trên bầu trời, thì mặt trời đã đứng yên thật. Những người theo chủ nghĩa duy văn tự tin rằng Kinh Thánh là lời của Thiên Chúa theo nghĩa Ngài thật sự ban những từ cụ thể cho các tác giả Kinh Thánh ghi lại. Người ta có thể gọi điều này là “lý thuyết linh ứng đọc chính tả.” Thiên Chúa đọc chính tả cho các tác giả Kinh Thánh.

Hầu hết các Kitô hữu (và hầu như người Do Thái cũng vậy) không chấp nhận hình thức chú giải này. Họ giải thích Kinh Thánh theo bối cảnh. Nghĩa là, họ hiểu những từ ngữ trong Kinh Thánh theo bối cảnh chúng được viết ra. Cần xem xét thời gian và nơi chốn của những từ ngữ được viết ra, những quan tâm của tác giả, thể loại văn chương, hoàn cảnh lịch sử và những nguồn của tác giả. Nói cách khác, Kinh Thánh là lời của Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa nói ngang qua đức tin, trí tuệ, khả năng và cả những giới hạn của tác giả Kinh Thánh, là những con người. Vì vậy, không phải mọi lời trong Kinh Thánh đều có sức nặng hoặc giá trị hay tính linh ứng ngang nhau. Trong Kinh Thánh, rõ ràng một số phần quan trọng hơn những phần khác. Đối với Kitô hữu, Tân Ước quan trọng hơn Cựu Ước, và trong Tân Ước những Tin Mừng quan trọng hơn hai mươi ba quyển còn lại.

Hội Thánh Công Giáo tin rằng Kinh Thánh thật sự là lời của Thiên Chúa, được viết ra không chỉ bởi con người nhưng nhờ sự linh hứng hướng dẫn của Thiên Chúa. Tuy nhiên, họ tin rằng ý nghĩa được linh ứng chỉ có thể được hiểu nếu chúng ta đọc Kinh Thánh theo bối cảnh trong đó Kinh Thánh được viết ra. Do đó, lối tiếp cận của chủ nghĩa duy văn tự không phải là một cách tốt để hiểu Kinh Thánh.

  1. NHỮNG CÔNG CỤ GIẢI THÍCH KINH THÁNH

Để giải thích Kinh Thánh, các học giả dùng nhiều kỹ thuật nhằm giúp họ khám phá ý nghĩa của nó. Ở đây, chúng ta sẽ tóm tắt sơ lược một vài phương pháp này:

  1. Phân tích văn chương (hoặc phê bình). Kinh Thánh bao gồm nhiều “thể loại văn chương.” Những thể loại này bao gồm lịch sử tôn giáo, thần thoại, thơ ca, các tin mừng, thánh thư, v.v. Để hiểu những gì chúng ta đang đọc, chúng ta nhất thiết cần phải hiểu hình thức văn chương của nó. Ví dụ, sách Gióp trong Cựu Ước nói về việc Thiên Chúa giáng những đau đớn không thể tin được trên Gióp để thử lòng tin của ông. Đây là một câu chuyên hư cấu tuyệt vời nhằm truyền đạt sứ điệp mang ý nghĩa tôn giáo về những đau khổ và ý muốn của Thiên Chúa. Nếu đọc câu chuyện này như là một biến cố thực sự diễn ra sẽ là một sai lầm, và chúng ta hầu chắc sẽ không bắt được ý chính của câu chuyện. Tương tự như thế, mười một chương đầu của sách Sáng Thế đôi khi bị xem là “thần thoại.” Đây là một thể loại văn chương rất đặc biệt. Thần thoại không có nghĩa là “không đúng sự thật,” dù đôi khi được sử dụng như thế. Thần thoại là một thể loại văn chương tìm cách suy tư về những mầu nhiệm của cuộc sống ngang qua việc sử dụng những câu chuyện. A-đam và E-và, Ca-in và A-ben và Nô-ê không phải là những nhân vật lịch sử, và chúng ta có thể giải thích sai câu chuyện nếu chúng ta nghĩ rằng họ là những nhân vật lịch sử.
  2. Phân tích lịch sử. Đây là một thuật ngữ khái quát để mô tả việc nghiên cứu về thời gian, văn hóa, các quốc gia xung quanh, và những ảnh hưởng trên tác giả Kinh Thánh. Việc nghiên cứu này đặc biệt quan trọng vì chúng ta tin rằng Thiên Chúa hoạt động trong và ngang qua lịch sử, chứ không phải trong một khoảng không vô định. Vì thế, nỗ lực hiểu và giải thích các sách lịch sử và ngôn sứ trong Cựu Ước, cũng như nhiều sách của Tân Ước (xem bên dưới) là điều đặc biệt hữu ích. Ngày nay các học giả có cơ hội tiếp cận được nhiều thông tin lịch sử hơn các thế hệ trước vì những phát hiện to lớn trong ngành khảo cổ học của thế kỷ hai mươi.
  3. Phê bình biên tập. Người biên soạn là một người biên tập và trong trường hợp này là tác giả Kinh Thánh. Kỹ thuật phê bình biên tập cố gắng tập trung vào ý hướng của tác giả. Kỹ thuật này cho rằng tác giả sẽ xây dựng tác phẩm của ông ta theo những bận tâm của mình. Ví dụ, bốn tin mừng trong Tân Ước phản ánh những hình ảnh khác biệt (cũng như tương tự) của Đức Giêsu và những hình ảnh này thường được hình thành do các quan tâm của người viết.
  4. Nghiên cứu ngôn ngữ Kinh Thánh. Cựu Ước nguyên thủy được viết bằng tiếng Do Thái. Tân Ước được viết bằng tiếng Hy Lạp. Các học giả thường qui về ngôn ngữ gốc của bản văn Kinh Thánh và nhờ đó có thể hiểu được nghĩa gốc của các từ ngữ tốt hơn.

 

  1. KINH THÁNH CỰU ƯỚC

Kinh Thánh của Công Giáo có bốn mươi sáu quyển trong phần Kinh Thánh Cựu Ước (cũng được gọi là Kinh Thánh Do Thái). Kinh Thánh Công Giáo có bảy quyển không có trong Kinh Thánh Do Thái và Tin Lành. Những quyển này thuộc Bản dịch bảy mươi (bản dịch tiếng Hy Lạp của Kinh Thánh Do Thái) và được chấp nhận bởi Hội Thánh Công Giáo như những quyển sách được linh ứng, nhưng sau này bị loại bỏ bởi truyền thống Do Thái và bởi anh em Tin Lành. Truyền thống Do Thái chia bộ sách Kinh Thánh thành ba loại: Luật, các ngôn sứ và tác phẩm thánh. Kinh Thánh của Kitô giáo chia làm bốn loại và gọi là:

  1. Ngũ Thư (tiếng Hy Lạp có nghĩa là năm quyển sách) hoặc Torah
  2. Những sách lịch sử
  3. Những sách ngôn sứ
  4. Văn chương khôn ngoan

Cựu Ước là câu chuyện của một dân tộc đi vào tương quan giao ước với Thiên Chúa. Họ là một “dân được tuyển chọn” không phải vì họ trổi vượt hơn những dân tộc khác, nhưng vì họ đã được Thiên Chúa chọn để trở nên ánh sáng cho các dân tộc khác, và là dấu chỉ cho Thiên Chúa vĩ đại của họ.

Ngũ Thư trình bày nguồn gốc ban đầu của dân tộc này. Bộ sách này bắt đầu với một “tiền lịch sử” trong Sáng Thế 1-11 trình bày việc sáng tạo thế giới, sự hài hòa giữa Thiên Chúa và tạo thành của Ngài bị phá hủy, và nói về các Tổ Phụ, Ápraham, Isaác và Giacóp. Sách Xuất Hành trình bày những biến cố trung tâm của lịch sử dân tộc Do Thái: thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập, giao ước được thiết lập với Môsê trên núi Sinai (1250 BC), và cuộc hành trình đi vào đất hứa. Nó cũng bao gồm những cốt lõi của luật. Luật này hướng dẫn dân Ítraen đi theo đường lối của Thiên Chúa.

Các Sách sử trình bày phần lớn lịch sử của Ítraen. Sau khi xuất hành ra khỏi Ai Cập, họ đi lang thang trong sa mạc bốn mươi năm trước khi đi vào đất hứa dưới sự lãnh đạo của Giô-suê. Mười hai chi tộc Ítraen từng là những đồng minh không mấy khăng khít và từng bước phát triển thành đất nước Ítraen thống nhất. Dưới thời vua Đavít và Salômôn (1020-930 BCE), Ítraen đạt đến cực thịnh trong lịch sử dân tộc của mình. Giai đoạn cực thịnh này kéo dài trong một thời gian ngắn cho đến khi cuộc nội chiến chia dân tộc thành hai vương quốc phía bắc Ítraen và phía nam Giu-đa. Vương quốc phái bắc chỉ kéo dài trong khoảng hai trăm năm trước khi bị tiêu diệt bởi người Assyria hùng mạnh. Giu-đa tiếp tục tồn tại nhưng phải thuần phục Assyria. Khi Babylon đánh bại Assyria, các vua của Giu-đa chống lại sự thống trị của Babylon, bị Babylon trừng phạt và bị lưu đày, đây là cuộc lưu đày Babylon (khoảng năm 586 BC). Cuộc lưu đày kéo dài khoảng gần năm mươi năm trước khi vua Batư là Xirô chiến thắng người Babylon và cho phép người Do Thái hồi hương. Sau khi trở về, người Do Thái vẫn chịu sự cai quản của người Batư. Ết-ra và Nê-hê-mia dẫn đầu một cuộc cải cách tôn giáo. Cuộc cải cách này đã đưa đến những thực hành vẫn còn ảnh hưởng trên Do Thái giáo hiện đại. Năm 332 BCE, Alexander đại đế đã chinh phục vùng Trung Đông và tích cực truyền bá văn hóa Hy Lạp giữa người Do Thái. Năm 175 BCE, nhà Macabê đã nổi dậy và dành được độc lập trong một khoảng thời gian ngắn. Giai đoạn độc lập kết thúc vào năm 63 BCE khi người Rôma chiếm đóng Palestine. Cuối cùng người Rôma cho Hêrôđê cả, một người Do Thái điều hành đất nước Ítraen thay cho họ. Ông này là vua vào thời gian Đức Giêsu sinh ra. (Các Sách Sử không ghi lại lịch sử thống trị của người Rôma, nhưng chỉ ghi chép những sự kiện cho tới cuộc khởi nghĩa của anh em nhà Macabê).

Các sách ngôn sứ thường được chia thành các ngôn sứ lớn và các ngôn sứ nhỏ. Việc phân chia này chính yếu dựa trên chiều dài của quyển sách, mặc dầu cũng nhờ một vài yếu tố khác. Các ngôn sứ là những phát ngôn viên vĩ đại của Thiên Chúa, những người kêu gọi Dân Chúa trở về trung thành với Thiên Chúa và với giao ước.

Văn chương khôn ngoan không giống như những quyển sách khác trong Cựu Ước vì nhiều lý do. Trong các sách khôn ngoan, những chủ đề lớn về giao ước và lịch sử cứu độ ít được quan tâm. Thay vào đó, chúng quan tâm nhiều hơn vào những vấn đề tôn giáo có ảnh hưởng đến tất cả mọi dân tộc. Các sách khôn ngoan tiếp cận những vấn đề trên theo phương pháp đậm tính chiêm niệm và triết lý.

  1. TÂN ƯỚC

Với cuộc đời, cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu, người Kitô hữu tin rằng Thiên Chúa đã ký kết một giao ước mới với dân của ngài. Tân Ước là tập hợp những tác phẩm thánh vào thời Giáo Hội sơ khai và phản ánh niềm tin của Hội Thánh vào Đức Giêsu. Những tác phẩm thánh này được Giáo Hội tuyển chọn và trở thành Kinh Thánh của Giáo Hội. (Những quyển sách chính thức thuộc về Kinh Thánh được gọi là “qui điển.”)  Trong Tân Ước có hai mươi bảy quyển và thuộc bốn thể loại văn chương khác nhau:

  1. Bốn Tin Mừng
  2. Hai mươi mốt thư
  3. Một sách lịch sử tôn giáo
  4. Một sách thuộc “văn chương khải huyền”

Các Tin Mừng. Bốn Tin Mừng (Mát-thêu, Mác-cô, Lu-ca, Gio-an) có một vị trí quan trọng đặc biệt trong Tân Ước. Trong Tin Mừng, chúng ta có thể tìm thấy những giáo huấn và lời rao giảng của Hội Thánh sơ khai về Đức Giêsu trong hình thức văn viết. Thuật ngữ “Phúc âm” có nghĩa là tin mừng. Tin mừng này trải qua ba giai đoạn phát triển:

  1. Thứ nhất, là chính giáo huấn và đời sống của Đức Giêsu. Ngài gọi sứ điệp của Ngài là phúc âm, là tin mừng về tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa.
  2. Thứ hai, là giáo huấn và lời rao giảng của Giáo Hội sơ khai, được gọi là truyền thống truyền khẩu. Những câu chuyện được Đức Giêsu kể và kể về Đức Giêsu được truyền khẩu từ cộng đoàn này sang cộng đoàn khác.
  3. Thứ ba, là các phúc âm được viết ra. Một cách chung, các học giả chấp nhận rằng tin mừng theo thánh Mác-cô được viết trước tiên, và sau đó Mát-thêu và Lu-ca đã dùng tin mừng của Mác-cô để hình thành nên tin mừng của riêng mình (ba tin mừng này có cùng một cấu trúc và được gọi là “tin mừng nhất lãm”). Gio-an là tin mừng cuối cùng, và đã sử dụng nhiều truyền thống khác nhau. Tin mừng của ngài rất khác với ba tin mừng còn lại. Quả thật cả bốn tin mừng đều đưa ra một cái nhìn độc đáo về con người và sứ điệp của Đức Giêsu. (Chúng ta sẽ xem xét điều này kỹ hơn trong chương bàn về Đức Giêsu.)

Có lẽ sự sai lầm lớn nhất là cho rằng các tin mừng như những quyển tiểu sử. Chúng không phải là những quyển tiểu sử. Chúng được viết ra nhằm giúp các Kitô hữu tiên khởi hiểu biết ý nghĩa về Đức Giêsu và các giáo huấn của ngài. Chúng không quan tâm nhiều đến các chi tiết lịch sử cụ thể. Tuy nhiên, các sách tin mừng cung cấp cho chúng ta những sự kiện lịch sử về đời sống, giáo huấn và cái chết của Đức Giêsu.

Tông Đồ Công Vụ là một quyển sách trong Tân Ước và có thể được xem như một quyển “lịch sử tôn giáo.” Sách này được thánh sử Lu-ca viết và là tác phẩm thứ hai của ngài. Sách kể về câu chuyện của Hội Thánh tiên khởi, tập trung trước hết vào cộng đoàn Giêrusalem và sau đó vào các hành trình truyền giáo của Phaolô. Sách này không phải là sách lịch sử cũng như sách Tin Mừng không phải là những quyển tiểu sử vì chúng được viết dưới quan điểm của đức tin. Lu-ca muốn cho thấy kỷ nguyên mới của lịch sử đã bắt đầu: đó là kỷ nguyên của Thánh Thần. Công Vụ Tông Đồ trình bày quyền năng của Thánh Thần trong hành trình Hội Thánh phát triển từ một giáo phái nhỏ ở Giêrusalem và sau đó lan rộng khắp vùng Trung Đông. Quyển sách của ngài kết thúc với việc Phaolô đến ở Rôma, với ngụ ý cho thấy sứ điệp của Đức Kitô đã được loan đi tới trung tâm của thế giới.

Các Thư. Các thư là “những quyển sách” chiếm số lượng lớn nhất trong Tân Ước. Tuy nhiên, chúng không được viết như những quyển sách. Chúng là những lá thư được viết cho các cộng đoàn khác nhau của Hội Thánh sơ khai. Các thư này có thể được phân chia thành các thư của Phaolô và các thư “Công Giáo.” Những thư Phaolô khẳng định Phaolô là tác giả. Phaolô là nhà truyền giáo và thần học gia vĩ đại của Giáo Hội sơ khai. Ngài viết thư cho nhiều cộng đoàn ngài đã viếng thăm. Trong các lá thư này, chúng ta có thể có được cái nhìn đầy đủ về đức tin, cũng như những bận tâm của các cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi. Nhiều học giả đặt vấn đề liệu rằng Phaolô đã thật sự viết tất cả các lá thứ được gán cho ngài hay không. Các thư “Công Giáo” không có ý nói đến Hội Thánh Công Giáo. “Công Giáo” ở đây có nghĩa là phổ quát. Chúng nhắm đến các cộng đoàn Kitô hữu nói chung chứ không nhắm đến một cộng đoàn cụ thể nào. Thư gửi tín hữu Do Thái không thực sự thuộc vào cả hai nhóm này, nhưng vì được xem là thư của Phaolô, nên chúng ta sẽ liệt kê nó vào nhóm thư Phaolô.

 

Sách khải huyền là một quyển sách ưa thích của các nhà đạo diễn Hollywood. Từ sách Khải Huyền họ lấy ra những biểu tượng cho nhiều phim như “Điềm Báo,” (The Omen) “Dấu Chỉ Thứ Bảy,” (The Seventh Sign) và nhiều phim khác. Đọc quyển sách này vào thế kỷ hai mươi là một việc rất khó khăn và gây bối rối. Nó thuộc hình thức “văn chương khải huyền.” Loại văn chương này mang tính biểu tượng cao và thường được viết vào những thời gian khủng hoảng (giống như sách Đanien trong Cựu Ước). Sách Khải Huyền được viết khi Hội Thánh bị bách hại bởi đế quốc Rôma. Nhiều biểu tượng ám chỉ đến kẻ thù nhằm tấn công người Rôma. Thật là không may, nó đã bị lạm dụng rất nhiều trong thế kỷ hai mươi này. Một số người khẳng định những biểu tượng trong sách ám chỉ các biến cố đang xảy ra ngày hôm nay. Điều này sai chệch với lý do vì sao quyển sách đã được viết ra trong thời kỳ của nó. Sách Khải Huyền khuyến khích người Kitô hữu hy vọng khi phải đối diện với các khó khăn đen tối nhất, và theo nghĩa ấy, nó có thể trở thành quyển sách cho mọi thế hệ.

 

  1. KINH THÁNH NƠI CỘNG ĐOÀN KITÔ HỮU

Gần hai ngàn năm qua Kinh Thánh liên tục nói với những ai tìm kiếm lắng nghe Lời Thiên Chúa. Kinh Thánh là một quyển sách liên tục nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng của người Kitô hữu cũng như của người Do Thái. Nó là kho tàng tri thức và khôn ngoan trong tương quan của chúng ta với Thiên Chúa. Nếu Kinh Thánh là lời sống động cho chúng ta, thì chúng ta phải học cách sử dụng để cầu nguyện và chiêm niệm. Một học giả Kinh Thánh dù biết chi tiết về Kinh Thánh nhưng không biết những ý nghĩa thâm thúy nhất của nó, thì quả thật người ấy biết rất ít về Kinh Thánh.

Phản tỉnh cá nhân và thảo luận

 

Bạn có đặc biệt thích “câu nói” nào trong Kinh Thánh không? Đó là câu nào? Nó có ý nghĩa gì đối với bạn?

  1. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA

Lời Chúa trong phụng vụ thánh lễ hàng tuần bao gồm những đoạn trích từ Kinh Thánh. Thường thì các bài đọc bao gồm:

  1. Một đoạn Cựu Ước
  2. Một Thánh vịnh (đọc theo hình thức đối đáp)
  3. Một đoạn thánh thư từ Tân Ước
  4. Một đoạn trích từ một trong các Tin Mừng

Trong suốt một năm, các bài đọc giống nhau đều được đọc mọi nơi trong Giáo Hội Công Giáo trên khắp thế giới. Giáo Hội dùng “chu kỳ” ba năm của các bài đọc và được ghi trong một quyển sách được gọi là sách các bài đọc. Năm A (các năm 1993, 1996, 1999, v.v.), Tin Mừng theo thánh Mat-thêu được đọc vào Chúa nhật. Năm B (1994, 1997, v.v.), Tin Mừng theo thánh Mác-cô được đọc. Năm C (1992, 1995, v.v.), Tin Mừng theo thánh Lu-ca được đọc. Ngoài ra, hàng năm Tin Mừng theo thánh Gio-an được đọc trong suốt mùa Phục sinh (bảy tuần từ Phục sinh cho đến lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống).

Các bài đọc Cựu Ước và thánh vịnh được chọn sao cho phù hợp với chủ đề của đoạn Tin Mừng (ví dụ: tha thứ, đức tin, tình yêu của Thiên Chúa, v.v.). Thánh thư có thể không liên quan với chủ đề này. Chúng ta lần lượt đọc các lá thư và không cần phải quan tâm liệu chúng có phù hợp với chủ đề của bài Tin Mừng hay không.

Linh mục hoặc phó tế có vai trò giảng giải về ý nghĩa của các bài đọc được áp dụng cho thời đại của chúng ta hôm nay như thế nào. Các bài đọc được sử dụng suốt năm là cách thức tuyệt vời để phát triển tương quan của chúng ta với Thiên Chúa.

 

Phản tỉnh cá nhân và thảo luận

 

Bạn đang sống trong năm phụng vụ nào? Các bài đọc cho Chúa nhật tới là những bài nào (hãy tìm trong sách các bài đọc, hoặc tìm trong Kinh Thánh, hoặc tra cứu trong lịch Công Giáo)? Đâu là chủ đề chính của bài Tin Mừng? Bài đọc Cựu Ước liên hệ với bài Tin Mừng như thế nào?

  1. KINH THÁNH VÀ CẦU NGUYỆN

Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng hầu hết người trưởng thành và thanh thiếu niên cầu nguyện theo một vài kiểu mẫu nào đấy. Nhưng cầu nguyện là gì? Cách đơn giản, cầu nguyện là gặp gỡ Thiên Chúa. Một phần của sự gặp gỡ này là nói cho Thiên Chúa biết điều gì đang diễn ra trong tâm trí của chúng ta. Nhưng một phần của cuộc gặp gỡ này cũng là lắng nghe: cố gắng “lắng nghe” điều Thiên Chúa đang nói với chúng ta. Một cách để có thể lắng nghe là suy gẫm Lời Chúa. Đây là một vài đề nghị có tính thực hành cho việc phát triển đời sống cầu nguyện với Kinh Thánh:

  1. Lập kế hoạch cho các bài đọc bạn sẽ đọc. Mở Kinh Thánh và đọc bất cứ đoạn nào gặp được thì thật không khôn ngoan chút nào.
  2. Tìm một nơi yên tĩnh sao cho bạn có thể tự do thoát khỏi sự chia trí.
  3. Thư giãn. Cố gắng thả lỏng chính mình. Nhắm mắt lại, hít vào thật sâu và chậm rãi trong khoảng hai hoặc ba phút.
  4. Đọc đoạn Kinh Thánh bạn đã chọn.
  5. Tự hỏi các điểm sau: Đoạn Kinh Thánh này cố nói với tôi điều gì? Nó có thể áp dụng cho cuộc sống của tôi vào lúc này như thế nào? Đừng tạo áp lực cho mình bằng cách cố gắng tìm hiểu đoạn Kinh Thánh này sẽ thay đổi bạn ra sao. Hãy kiên nhẫn. Hãy hỏi: hôm nay tôi có thể đáp lại lời mời gọi của đoạn Kinh Thánh này như thế nào? (Bạn có thể tham khảo một tập san suy tư ngắn gọn về các bài đọc)
  6. Kết thúc với việc tâm sự bằng con tim, xin Chúa giúp sức để thực thi Lời Ngài.
  7. Đừng luôn mong sẽ có những cảm xúc dạt dào. Đôi khi chúng ta có thể cảm thấy Thiên Chúa rất gần gũi hoặc Ngài rất xa vời. Nên nhớ cầu nguyện là một sự dấn thấn và là một tương quan.
  8. Đừng từ bỏ. Nếu bạn ngừng cầu nguyện vì một lý do nào đó, thì đừng sợ quay lại với việc cầu nguyện. Có lẽ bạn cần sự ngắt quãng đó. Hãy nhớ rằng Thiên Chúa thích bạn trở lại hơn là bạn vắng mặt.
 

CÁC  SÁCH TRONG KINH THÁNH

 

Cựu Ước (Các sách được in nghiêng được tìm thấy trong Kinh Thánh Công Giáo nhưng không thấy trong Kinh Thánh của Do Thái hoặc Tin Lành)

 

Ngũ Thư (Luật):                      

Sáng thế, Xuất hành, Lêvi, Đệ nhị luật, Dân số

 

Các Sách Lịch Sử:                    

Giô-suê, Giu-đa, 1 và 2 Sa-mu-en, 1 và 2 Các Vua, 1 và 2 Sử biên niên, Ét- ra, Nơ-khe-mi-a, Rút, Ét-te, Ai-ca, Giu-đi- tha, Tô-bi-a, Ba-rúc, 1 và 2 Ma-ca-bê,

Văn Chương Khôn Ngoan:  

Gióp, Thánh Vịnh, Châm ngôn, Giảng viên, Diễm ca, Huấn ca, Khôn ngoan của Sa-lô-môn

Các Ngôn Sứ –  Lớn:                

I-sai-a, Giê-rê-mi-a, Ê-dê-ki-en, Đa-ni-en

Các Ngôn Sứ – Nhỏ:               

Hô-sê, A-mốt, Ô-va-đi- a, Giô-na, Mi-kha, Na-khum, Kha-ba-cúc, Xô-phô-ni-a, Khác-gai, Da-ca-ri-a, Ma-la-khi

Tân Ước

Tin Mừng:                                

 Mát-thêu, Mác-cô, Lu-ca, Gio-an

Lịch sử tôn giáo:                      

 Tông đồ công vụ

Các thư –Phao-lô:                 

Rô-ma, 1 và 2 Cô-rin-tô, Ga-lát, Ê-phê-xô, Phi-lip-phê, Cô-lô-xê, 1 và 2 Thê-xa-lô-ni-ca, 1 và 2 Ti-mô-thê, Ti-tô, Phi-lê-môn, Do-thái

Các Thư –Công Giáo:             

Gia-cô- bê, 1 và 2 Phê-rô, 1, 2 và 3 Gio-an, Giu-đa

Văn chương khải huyền:         

Sách khải huyền

 

 

 

Câu hỏi ôn tập

  1. Định nghĩa mặc khải
  2. Thiên Chúa truyền thông với tạo vật của Ngài như thế nào?
  3. Người Kitô hữu tin sự tròn đầy của mặc khải của Thiên Chúa là gì?
  4. Định nghĩa Truyền Thống
  5. Đâu là sự khác biệt giữa chú giải theo chủ nghĩa duy văn tự và chú giải theo bối cảnh?
  6. Đâu là ý nghĩa của việc phân tích văn chương, lịch sử và biên tập của Kinh Thánh?
  7. Cựu Ước được chia làm bốn phần, đó là những phần nào?
  8. Đâu là biến cố then chốt hình thành nên Ítraen như là Dân Thiên Chúa?
  9. Một ngôn sứ là gì?
  10. Trong Cựu Ước, thể văn khôn ngoan khác biệt với các sách khác như thế nào?
  11. “Qui điển” của Kinh Thánh là gì?
  12. Đâu là bốn thể loại văn chương có thể tìm thấy trong Tân Ước?
  13. Mô tả ba giai đoạn phát triển của bốn Tin Mừng.
  14. Đâu là chủ đề chính của sách Công Vụ Tông Đồ?
  15. Một lá thư là gì? Đâu là sự khác biệt giữa một thư Phaolô và một thư Công Giáo?
  16. Văn chương khải huyền là gì? Đâu là điểm chính của sách Khải huyền?
  17. Bốn bài đọc trong thánh lễ thường được lấy từ đâu?

 

Chuyển dịch: Nhóm Học viên Dòng Tên

Nguồn: Anthony Marinelli, The Word Made Flesh: An Overview of the Catholic Faith, (Manila, Philippines: Saint Paulus, 1999), 50-66.