Bộ Kinh Thánh của Công Giáo có 73 cuốn, trong khi đó Kinh Thánh của Tin Lành có 66 cuốn. Cả hai có cùng số lượng sách trong phần Tân Ước (27 cuốn); nhưng trong phần Cựu Ước có sự khác biệt. Kinh Thánh Công Giáo có nhiều hơn 7 cuốn (Giuđitha, Huấn ca; Khôn ngoan, Baruc, Maccabê 1 và 2, và Tôbia) bởi vì Công Giáo sử dụng Quy điển Alexandria – danh mục các sách được công nhận. Quy điển được thiết lập ở Anlexandria – Hy Lạp vào những năm 250 TCN. Tại thời điểm đó, bảy mươi học giả được ủy thác để dịch ba mươi chín cuốn sách trong Cựu Ước đã có sẵn từ tiếng Do Thái sang tiếng Hy Lạp. Họ cũng tính luôn 7 cuốn sách khác (gọi là đệ nhị quy điển) được những người Do Thái viết bằng tiếng Hy Lạp trong thời Lưu đày. Vào thế kỷ thứ ba trước Công nguyên, hai phần ba số người Do Thái không còn ở trong đất của họ nữa. Người Babylon và Assyria đã bắt đi lưu đày phần lớn người Do Thái, và chỉ một phần ba được để lại trong đất nước của họ. Phần thiểu số ấy sống trong vùng đất được gọi là Palestine (Israel ngày nay), nên họ nói và viết bằng tiếng Do Thái. Tuy nhiên, đa số những người Do Thái bị lưu đày đã bị cấm không được dạy tiếng Do Thái cho trẻ em Do Thái, nên lúc lớn lên, những người này biết tiếng Hy Lạp bởi nó là ngôn ngữ của Đế quốc (của Alexandre Đại đế), ngôn ngữ của thương mại và học thuật.
Vì bảy mươi học giả này được cho là đã mất bảy mươi ngày để chuyển ngữ bản Kinh Thánh Do Thái sang tiếng Hy Lạp, thuật ngữ Bản Bảy Mươi (Septuaginta) trong tiếng Latin hoặc chữ số La Mã LXX, được dùng để chỉ bộ sưu tập của bốn mươi sáu cuốn sách này (ba mươi chín cuốn dịch từ tiếng Do Thái sang tiếng Hy Lạp, cộng với bảy cuốn nguyên văn Hy Lạp). Do Thái giáo và Kitô giáo đã chấp nhận và sử dụng tất cả 46 sách của Bản Bản Mươi cho đến năm 90, khi các nhà lãnh đạo tôn giáo Do Thái quyết định sửa đổi danh mục các sách đã được thừa nhận. Sau khi đền thờ Giêrusalem bị người La Mã phá hủy năm 70, các Kitô hữu và người Do Thái tách rời nhau và thành lập các tôn giáo riêng biệt. Hai mươi năm sau, khi các học giả Do Thái cho rằng ảnh hưởng Kitô giáo Hy Lạp phải bị loại bỏ ra khỏi bộ sách thì bảy cuốn sách của Cựu Ước, nguyên gốc được viết bằng tiếng Hy Lạp chứ không phải bằng tiếng Do Thái, đã bị loại khỏi danh mục. Đôi khi, danh mục mới này của người Do Thái còn được gọi là Quy điển Palestine vì đó là tên của Đất Thánh vào thời đó. Tuy nhiên, các Kitô hữu giờ đã độc lập, nên giữ lại danh sách bốn mươi sáu cuốn sách của họ bằng tiếng Hy Lạp cổ (theo Quy điển Alexandria), trong khi người Do Thái vẫn chỉ có 39 cuốn.Năm 400, Thánh Giêrônimô đã được Đức Giáo Hoàng Đamasô Đệ nhất ủy thác dịch toàn bộ bản Do Thái và Hy Lạp của Cựu Ước và Tân Ước sang một ngôn ngữ và làm thành một bộ. Tại thời điểm đó, tiếng Latin là ngôn ngữ chính thức của Đế quốc. Thánh Giêrônimô đã sử dụng bản Hy Lạp [Bản Bảy Mươi – LXX] và đã giữ tất cả 46 cuốn sách của Cựu Ước với 27 cuốn sách của Tân Ước để hình thành nên ấn bản đầu tiên của Kinh Thánh Kitô giáo, tổng cộng gồm 73 cuốn.Những điều này không thay đổi cho đến thể kỷ 15, khi có phong trào Cải cách Tôn giáo của Tin Lành. Martin Luther, một tu sĩ dòng Augustinô, linh mục Công giáo, một học giả Kinh Thánh, biết Do Thái giáo có một danh mục sách ngắn hơn (39 cuốn) so với danh sách dài hơn (46 cuốn), và ông biết rằng có một số lạm dụng và căng thẳng trong Giáo Hội vào cuối thời trung cổ, có nguồn gốc từ một giáo thuyết dựa trên một trong những cuốn sách của đệ nhị quy điển (các sách Maccabê vốn được sử dụng để giải thích cho giáo lý của Công giáo về luyện ngục). Tội buôn bán ơn xá giải (mại thánh) quá nhiều đến nỗi Luther không chịu đựng nổi, và ông đã phản ứng bằng việc chống đối lại chẳng những việc lạm dụng ấy mà còn chống đối luôn cả giáo lý cho rằng người chết cần được cầu nguyện để lên thiên đàng. Ông đã chọn theo quy điển Palestine với 39 cuốn sách trong Cựu Ước. Luther đã dịch một bản Kinh Thánh mới qua tiếng Đức, gồm 66 cuốn mà không có những sách thuộc đệ nhị quy điển. Với việc bỏ đi các sách Maccabê, Luther hy vọng các lạm dụng cũng sẽ được loại bỏ đi như thế.Trái lại, Giáo hội Công giáo, kể từ Công đồng Trentô, đã quyết định giữ quy điển Hy Lạp (Alexandria) với 46 sách trong Cựu Ước, bởi vì đó là quy điển mà các Kitô hữu biết và đã sử dụng từ thời Chúa Giêsu và các tông đồ. Nó cũng tương tự như danh mục các sách được Thánh Giêrônimô dùng trong bản Kinh Thánh Phổ Thông (Vulgata Bible) của ngài và nó đã được sử dụng từ trước đó. Thế nên, từ thời kỳ Cải Cách ở thế kỷ 16, có hai loại Kinh Thánh: Tin Lành và Công giáo, vốn giống nhau 99 phần trăm trong thứ tự và nội dung ngoại trừ 7 cuốn sách được viết vào thế kỷ thứ ba trước Công nguyên. Một số nhà Kinh Thánh Tin Lành ngày nay gộp chúng vào phần được gọi là Apocrypha[1], vốn xuất hiện vào cuối thời Cựu Ước trước các Tin Mừng trong Tân Ước. Kinh Thánh Công giáo đã luôn luôn có những cuốn sách này, họ gọi các sách này là đệ nhị quy điển.Cả Kinh Thánh Công giáo lẫn Tin Lành đều bắt đầu với sách Sáng Thế và kết thúc với sách Khải Huyền và cả hai đều có 4 Tin Mừng. Sự khác biệt duy nhất là việc kể vào hoặc loại trừ 7 cuốn sách được thêm vào trong bộ Kinh Thánh Do Thái (Cựu Ước của Kitô giáo).
Chuyển ngữ: Nhóm Maiorica, Học viện Dòng Tên
Nguồn: Rev. John Trigilio JR., Ph.D., and Rev. Kenneth D. Brighenti, Ph.D., The Catholicism Answer Book- The 300 Most Frequently Asked Question, (Naperville, Illinois: Sourcebooks, Inc., 2007), 22-23.
[1] Tuy người Tin Lành không công nhận những sách này trong Quy điển, nhưng họ vẫn nhìn nhận những giá trị thiêng liêng của các sách ấy- ND.