Ảnh từ Internet

 

Đức Maria đồng trinh trước khi, trong khi và cả sau khi hạ sinh Đức Giêsu. Đây là một tín điều về sự đồng trinh trọn đời của Đức Mẹ. Qua biến cố Truyền Tin diệu kỳ, Thánh Thần đã bao phủ trên Đức Maria và Mẹ đã thụ thai và sinh ra một người con trai, đặt tên là Giêsu. Mặc dầu đây là một mầu nhiệm, nó lại hoàn toàn hợp lý để kết luận luận điểm thần học này. Mầu nhiệm là một chân lý thần thiêng vốn được mạc khải nhưng không thể giải thích đầy đủ. Lý do chính của việc không thể giải thích đầy đủ là bởi vì [giới hạn] của ngôn ngữ. Khi chúng ta nói về những chân lý thần linh vốn là vô hạn, chúng ta chỉ có ngôn ngữ giới hạn để giải thích chúng. Chính sự thật này cho thấy giới hạn của ngôn ngữ con người. Đôi khi chúng ta có thể giải thích những chân lý thần linh nhưng chỉ bằng loại suy bởi sự giới hạn của ngôn ngữ con người.

Những giới hạn của chúng ta không giảm nhẹ luận điểm thần học về Sự Sinh Con mà vẫn Đồng Trinh. Một mặt, công đồng Nicéa bàn thảo cụ thể về nguồn gốc của Đức Kitô. Chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính, “Tôi tin kính Đức Kitô Con Một Thiên Chúa, Chúa chúng ta, sinh bởi Đức Chúa Cha.” Đức Maria trở thành phương thế được Chúa Thánh Thần sử dụng để làm cho Chúa Giêsu Nhập Thể. Ngôi Hai của Ba Ngôi Chí Thánh, Đấng hiện hữu từ muôn thuở với Ngôi Thứ Nhất và Ngôi Thứ Ba, đảm nhận một thân xác từ Đức Trinh Nữ. Sự hợp nhất của hai bản tính trong một con người thần linh được gọi là sự hiệp nhất ngôi vị. Bởi vì điều này không thể xảy bởi con người, nên sự trinh nguyên của Đức Maria được duy trì nguyên vẹn.

Thánh Giuse là một cha nuôi khiết trinh của Đức Giêsu. Ngài là người bảo vệ cho gia đình thánh và là bạn đời của Đức Maria. Giáo thuyết của Giáo Hội về cuộc hôn nhân giữa Thánh Giuse và Đức Maria là thật, nhưng nó không hoàn tất trong ý nghĩa nhục dục. Trong Thánh Kinh, chỉ có một ngụ ý về những anh em của Đức Giêsu là qua việc sử dụng từ adelphoi. “Adelphoi,” bên cạnh nghĩa là anh em, còn có thể dịch là chú bác, cháu trai hay bà con họ hàng. Sách Sáng Thế 11,27 nói cho chúng ta biết rằng Abraham là anh em của bố ông Lót, do đó ông Lót phải gọi Abraham bằng chú. Tiếng Do Thái và Hy Lạp cổ không có chữ nào để chỉ “chú” hoặc “cháu trai” hay “bà con họ hàng.” Từ ngữ “anh em” được dùng trong cách tương tự với từ “bà con” mà chúng ta sử dụng ngày nay. Sáng Thế Ký 14,12.16 (trong bản King James) chỉ cho thấy Lót như là “anh em” của ông Abraham (ach trong tiếng Do Thái, và adelphos trong tiếng Hy Lạp). Khi đọc Kinh Thánh với bản dịch tiếng Anh hiện đại, bản King James đã chỉ đến “anh em của Đức Giêsu” nhưng không phải “con của Đức Maria.” Như thế, bạn có thể kết luận rằng, ý nghĩa thứ hai của từ ngữ này, đó là “bà con họ hàng” là cách dịch phù hợp.

Không có việc nhắm tới bất cứ anh em ruột nào của Đức Giêsu dưới chân thập giá với Mẹ của Người là Đức Maria. Chỉ có những người bà con họ hàng của Đức Maria được đề cập, nó cũng phải phù hợp cho những người loan báo Tin Mừng tới những anh em ruột thịt của Đức Giêsu cách chính danh. Bởi vì họ câm lặng về điều này, nó khẳng định được Người không có anh chị em ruột thịt nào cả. Vì thế, Đức Maria đồng trinh trước, trong và sau khi sinh người con duy nhất của Mẹ là Đức Giêsu Kitô.

 

Chuyển ngữ: Nhóm Maiorica, Học viện Dòng Tên

Nguồn: Rev. John Trigilio JR., Ph.D., and Rev. Kenneth D. Brighenti, Ph.D., The Catholicism Answer Book- The 300 Most Frequently Asked Question, (Naperville, Illinois: Sourcebooks, Inc., 2007), 61-62.