(Ảnh từ Internet)
Triết học là cách thức duy thức duy nhất để tiến gần đến những câu trả lời cho những câu hỏi quan trọng mà không có một lời giải thích nào từ việc quan sát thực tiễn có thể giải quyết được. Ví dụ, triết học cố gắng trả lời những câu hỏi sau: “Làm gì cho phải nếu có 10 người trên một chiếc xuồng cứu hộ mà nó chỉ có thể giữa an toàn cho 6 người?” ”Đâu là ý nghĩa cuộc đời?” “Liệu rằng chúng ta có thể chứng minh Thiên Chúa tồn tại hay không tồn tại?”
Câu 1: Triết học là gì?
Triết học là một hoạt động tìm kiếm sự khôn ngoan. Tiếng Hy Lạp, vốn là ngôn ngữ đầu tiên của triết học Tây Phương, “philosophy” nghĩa là yêu mến sự khôn ngoan. Một người yêu mến sự khôn ngoan bằng việc cố gắng tìm hiểu nó là gì. Con người có nhiều cách thức tìm kiếm sự khôn ngoan, bao gồm nghệ thuật, tôn giáo, và kinh nghiệm cuộc sống. Triết học mang tính đặc thù bởi nó tìm kiếm sự khôn ngoan ngang qua việc sử dụng lý trí một cách có hệ thống.
Các triết gia tập trung vào các tư tưởng, ý nghĩa của các tư tưởng, và những niềm tin qua việc phân tích chúng. Họ đập vỡ chúng thành nhiều phần và sau đó xây dựng và kết hợp chúng lại trong những cách thức mới mẻ. Hơn nữa, để phân tích, các triết gia suy tư về những gì đang diễn ra trong tâm trí và trong thế giới, họ tìm kiếm sự khôn ngoan ngang qua những trực giác về tổng thể những cấu trúc của tư tưởng hay kinh nghiệm.
Câu 2: Triết học bắt đầu khi nào?
Ở Tây Phương, khía cạnh khoa học của triết học, hay tư tưởng chung trừu tượng về thế giới tự nhiên và con người, bắt đầu tại thời Hy Lạp cổ đại vào thế kỷ 17 trước công nguyên (TCN), với những câu hỏi về trái đất và vũ trụ của những triết gia được gọi là những triết gia Tiền Socrates, nhiều tư tưởng của họ vẫn tiếp tục phát triển trong thời của Socrates. Giữa thời những triết gia Tiền Socrates và thời của Socrates, các nhà ngụy biện (Sophists) là những người đầu tiên tập trung vào thế giới con người, mặc dù phương pháp của họ mâu thuẫn và có lẽ không có tính đạo đức. Họ được trả công cho những lý luận của mình mà không quan tâm đến chân lý của những lý luận ấy hay sự công bình của điều mà họ đang tranh luận. Với những hoạt động của Socrates vào thế kỷ thứ V TCN, và các tác phẩm viết theo kiểu kịch nghệ đối thoại của Plato, vốn là học trò của Socrates, được viết vào thế kỷ IV TCN thì khía cạnh nhân văn chân thực của triết học được thiết lập. Hai chủ đề lớn về thế giới tự nhiên và thế giới con người vẫn được các triết gia quan tâm, những ngành khoa học vật lý và khoa học xã hội được phân nhánh từ chính hai chủ đề trên. Hai chủ đề này cũng tồn tại lâu dài trong cuộc sống thường ngày.
Câu 3: Triết học khác với những theo đuổi khác của tri thức như thế nào?
Nhìn chung, loại khôn ngoan mà các triết gia yêu mến bao gồm những câu trả lời cho những câu hỏi mà phải làm việc cật lực mới có được thay vì chỉ khám phá qua kính hiển vi, kính thiên văn, các cuộc nghiên cứu và các phép đo lường. Ví dụ, một nhà xã hội học sẽ nghiên cứu về niềm tin của mọi người, nhưng một triết gia sẽ hỏi liệu rằng những niềm tin đó có đúng không hoặc được chứng minh là đúng không.
Vì những câu hỏi triết học không thể được trả lời với các sự việc thực tế, những câu trả lời cho một vấn đề hay một quan điểm thì rất phong phú. Nhưng những quan điểm này đặc biệt, bởi vì những lý do [cho những quan điểm] thì luôn luôn bị cật vấn. Đây là điều mà vài người cảm thấy rất hứng thú với triết học. Tuy nhiên, nhiều hoạt động triết học là một cuộc bàn luận hoặc đối thoại giữa nhiều triết gia. Và họ hầu như chẳng bao giờ hoàn toàn đồng ý với nhau!
Chuyển ngữ: Nhóm Maiorica, Học viện Dòng Tên
Nguồn: Naomi Zack, Ph.D., The Handy PhilosOphy Answer Book, (Visible Ink Press, 2010), 1-2.