Nữ ngôn sứ Debora

                                                                                         Môn học: Ngôn Sứ
 Giáo sư: Cao Gia An, S.J.
Học viên:
Lê Cao Tài, S.J.

Trong bối cảnh văn hóa và tôn giáo Do Thái trọng nam khinh nữ, việc xuất hiện các nữ ngôn sứ là một hiện tượng lạ. Tác giả bài viết chưng dẫn những chứng cớ trong Cựu Ước cho thấy tính tương phản giữa một thế giới quan xem thường người nữ với uy tín, ảnh hưởng và tầm quan trọng của các nữ ngôn sứ. Hiện tượng lạ ấy mạc khải dung mạo của Thiên Chúa, Đấng vĩ đại và quyền năng, biến những điều không thể thành ra có thể, như lời thánh Phaolô viết: “những gì thế gian cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh” (1 Cr 1:27)

Dẫn nhập

Trong các nền văn hóa và tôn giáo cổ xưa trên thế giới, người phụ nữ thường ít được xem trọng. Đặc biệt, trong những xã hội tiền phong kiến và phong kiến, quan niệm trọng nam khinh nữ càng rõ ràng, việc đàn ông có năm thê bảy thiếp là chuyện bình thường.Với các tôn giáo cũng vậy, phụ nữ thường không có vai trò quan trọng, nhất là trong việc tế tự, thậm chí họ còn bị coi là ô uế. Văn hóa và tôn giáo Do Thái thời Cựu Ước cũng không ngoại lệ, người phụ nữ không được xem trọng và phải phục tùng đàn ông. Không chỉ trong Kinh Thánh Cựu Ước, ngay cả vào thời Chúa Giê-su và các tông đồ, tác giả Kinh Thánh cũng đã diễn tả quan điểm của người thời đó về phụ nữ. Như trong phép lạ Chúa hóa bánh ra nhiều, phụ nữ và trẻ em không được tính: Số người ăn có tới năm ngàn đàn ông, không kể đàn bà và trẻ con” (Mt 14, 21) hoặc thư gửi ông Ti-mô-thê, thánh Phao-lô cũng đã trình bày quan điểm theo văn hóa thời đó, là người phụ nữ chỉ biết lắng nghe và phục tùng: “Khi nghe lời dạy dỗ, đàn bà phải thinh lặng và hết lòng phục tùng. Tôi không cho phép đàn bà giảng dạy, hay thống trị đàn ông, trái lại họ phải thinh lặng”(1 Tm 2, 11-12).

Nếu phụ nữ không có địa vị và giá trị trong văn hóa Do Thái, thì việc một phụ nữ trở thành ngôn sứ là điều hiếm hoi và lạ lùng, vì ngôn sứ là người công bố lời Thiên Chúa cho dân chúng, sửa dạy và dẫn dắt họ vượt qua những khó khăn trong hoàn cảnh hiện tại và loan báo kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Tuy nhiên, với não trạng trọng nam khinh nữ như vậy, liệu một nữ ngôn sứ có thể làm được gì? Họ đóng vai trò nào trong chức vụ của họ? Và động lực nào giúp họ vượt qua rào cản xã hội để dấn thân trong ơn gọi ngôn sứ của mình? Bài viết này cố gắng tìm hiểu thân phận người phụ nữ và về các nữ ngôn sứ trong Kinh Thánh Cựu Ước để trả lời cho những vấn nạn vừa nêu.

Như vậy, trước hết, chúng ta sẽ bàn về thân phận thấp hèn của người phụ nữ trong văn hóa, tôn giáo Do Thái trong Kinh Thánh Cựu Ước, để thấy những nổi thống khổ và khó khăn của người phụ nữ, qua đó, giúp ta hiểu rằng việc người phụ nữ trở thành ngôn sứ là điều vô cùng đặc biệt.

Thân phận thấp hèn của người phụ nữ trong Cựu Ước

Cựu Ước là thời kỳ tiền phong kiến và phong kiến, với chế độ đa thê, người đàn ông có quyền lấy nhiều vợ. Kinh Thánh Cựu Ước cho thấy E-sau có 3 người vợ, Gia-cóp: 2 vợ; En-ka-na: 2 vợ; Đa-vit: ít nhất 10 vợ; Re-ha-bô-am: 3 vợ; A-bi-gia: 14 vợ; Giê-hô-am, Gio-at, A-hab, Giê-hô-gia-kim: có rất nhiều vợ và đặc biệt Salo-mon có tới hơn 300 người vợ… Như vậy, so với những nền văn hóa khác như Trung Hoa, Ấn Độ, quan niệm của người Do-Thái về phụ nữ cũng chẳng khác gì mấy: người phụ nữ không được xem trọng, họ coi phụ nữ như là tài sản thuộc quyền sở hữu của đàn ông; phụ nữ còn bị coi là xấu xa, ô uế và họ không có quyền để quyết định số phận của mình.

Người phụ nữ bị coi như sở hữu của đàn ông

Trong Kinh Thánh Cựu Ước có rất nhiều đoạn diễn tả quan niệm của người Do Thái về người phụ nữ. Phụ nữ chỉ chỉ được xem như là tài sản của người đàn ông mà thôi. Một người con gái khi chưa lập gia đình thì lệ thuộc vào người cha và khi lấy chồng thì nàng phải lệ thuộc vào người chồng của nàng. Nàng không được tự mình quyết định cho số phận riêng của mình.

– Khi thiếu nữ chưa có chồng thì nàng thuộc quyền sở hữu của cha nàng.

Người thiếu nữ, khi chưa lấy chồng, không có quyền quyết định số phận của mình nhưng cha nàng sẽ là người quyết định số phận của nàng. Như trong trường hợp của ông Lót, ông không tìm cách khác để bảo vệ người khách của ông khỏi tay bọn biến thái ở thành So-dom mà lại chọn cách đưa hai đứa con gái còn trong trắng của mình cho người ta hãm hiếp:Đây tôi có hai đứa con gái chưa ăn ở với đàn ông, tôi sẽ đưa chúng ra cho anh em; anh em muốn làm gì chúng thì làm, nhưng còn hai người này, xin anh em đừng làm gì họ, vì họ đã vào trọ dưới mái nhà tôi.” (St 19,8). Điều này cho thấy rằng ngay trong thời kỳ đầu của dân tộc Do Thái, người phụ nữ đã là sở hữu của người cha.

Cho đến thời Mô-sê, điều này được diễn tả rõ ràng hơn trong sách luật:Khi một người đàn ông gặp một cô gái chưa đính hôn, nắm lấy nàng và nằm với nàng, và họ bị bắt gặp, thì người đàn ông đã nằm với nàng phải nộp cho cha cô gái năm mươi thỏi bạc; nàng sẽ là vợ người ấy, bởi lẽ người ấy đã cưỡng hiếp nàng, và suốt đời người ấy không thể rẫy nàng (Đnl 22, 28-29).Trong luật này, người con gái không hề có tiếng nói, chỉ biết thinh lặng, chấp nhận để cha nhận tiền và phải cưới một người đã hãm hiếp mình làm chồng cho hết cuộc đời.

Nếu cha nàng không muốn cho nàng lấy người dụ dỗ nàng thì cha nàng cũng nhận được số tiền lớn hơn:Khi có ai dụ dỗ một thiếu nữ chưa đính hôn và ăn nằm với nàng, thì phải trả tiền cưới cho gia đình nàng. Nàng sẽ thành vợ người đó. Nếu cha nàng nhất định không chịu gả, người ấy sẽ phải nộp một số tiền tương đương với tiền cưới một người con gái. (Xh, 22,15-16) và nàng sẽ bị mang tiếng là con gái mất trinh. Càng không công bằng hơn khi người con gái ấy đi lấy người khác, khi anh ta phát hiện nàng không còn trinh tiết nữa thì nàng có thể bị đem đi tử hình, như trong sách Đệ Nhị Luật cho thấy: nếu người ta không tìm thấy nơi cô gái những dấu chứng tỏ cô còn trinh, thì họ sẽ lôi cô gái ra cửa nhà cha nàng; người trong thành của nàng sẽ ném đá nàng cho chết và nàng sẽ phải chết, vì nàng đã làm điều đồi bại trong Ít-ra-en, khi làm điếm trong nhà cha mình” (Đnl 22,20-21). Cô ta bị tử hình là vì cô đã làm mất danh dự của người cha chứ không phải vì hành vi gian ác nào đó. Điều này có nghĩa là danh dự của người cha còn cao hơn cả mạng sống của một người con gái. Còn khi người đàn ông làm mất danh dự của phụ nữ, khi lấy nàng về làm vợ mà nghi ngờ nàng không còn trinh tiết rồi tố cáo nàng, nhưng nàng thật sự đã không hề mất trinh tiết, thì người đó chỉ bị sửa phạt và phải nộp tiền phạt cho cha của nàng: Các kỳ mục trong thành sẽ bắt người chồng và sửa phạt: họ sẽ bắt người ấy nộp phạt một trăm thỏi bạc, và sẽ trao số bạc đó cho người cha cô gái, vì người ấy đã bôi xấu danh dự của một trinh nữ Ít-ra-en. Nàng sẽ là vợ người ấy và suốt đời người ấy không thể rẫy nàng”(Đnl 22,18-19) và nàng lại phải tiếp tục sống với người đó trong nỗi tủi nhục.

  • Khi một thiếu nữ lấy chồng, nàng sẽ trở thành sở hữu của chồng nàng

Đọc câu chuyện kể về nguyên nhân cuộc chiến tranh giữa Ít-ra-en và chi tộc Ben-gia-min (sách Thủ Lãnh chương 19), ta mới thấy sự dã man của đàn ông khi đối xử với phụ nữ, nhất là người đàn ông Lê-vi được gọi là chồng của nàng. Khi ông ta và vợ đi đường xa không có chỗ trọ thì một cụ già đã đón họ về nhà cụ. Nhưng khi đón khách vào nhà, những người trong thành lại vây quanh nhà, đòi làm điều đồi bại với người khách. Cụ già không thể làm gì để bảo vệ người khách Lê-vi này nên đã muốn hiến người con gái còn trinh của cụ và vợ của người đàn ông kia cho họ hãm hiếp. Cuối cùng, người đàn ông Lê-vi này đã đưa chính người vợ của mình cho họ cưỡng hiếp: Chúng cưỡng hiếp nàng suốt đêm cho tới sáng, và lúc rạng đông mới buông tha. (Tl 19, 25). Đến sáng, người phụ nữ trở về nhà trọ với thân tàn ma dại và gục chết trước cửa nhà. Sau đó, người đàn chặt nàng ra thành mười hai mảnh rồi gửi đi khắp thành phố Ít-ra-en(Tl 19,16-30). Trong câu chuyện này, người phụ nữ không hề có một tiếng nói nào, tất cả mọi quyết định đều tùy thuộc vào người chồng, ngay cả với mạng sống của họ.

Trong sách luật Do-thái cũng không có chỗ nào cho phép người phụ nữ viết đơn li dị chồng, chỉ có người chồng mới có quyền viết đơn li dị vợ mình mà thôi.Nếu một người đàn ông đã lấy vợ và đã ăn ở với nàng rồi, mà sau đó nàng không đẹp lòng người ấy nữa, vì người ấy thấy nơi nàng có điều gì chướng, thì sẽ viết cho nàng một chứng thư ly dị, trao tận tay và đuổi ra khỏi nhà. Ra khỏi nhà người ấy, nếu nàng đi lấy chồng khác, mà người chồng sau lại ghét bỏ nàng, viết cho nàng một chứng thư ly dị, trao tận tay và đuổi ra khỏi nhà” (Đnl 24,1-3).Người phụ nữ không hề có danh phận trong luật Do-Thái. Người vợ sống là để rạng danh chồng, rạng danh dòng họ của chồng, và không thể tự quyết định cho số phận của mình như trong luật sinh nối dõi cho chồng mình. Người phụ nữ buộc phải lấy anh em của chồng mình khi chồng cô qua đời: Khi có những anh em ở chung với nhau, và một trong những người đó chết mà không có con trai, thì vợ của người chết không được lấy một người xa lạ, ngoài gia đình; một người anh em chồng sẽ đến với nàng, lấy nàng làm vợ và chu toàn bổn phận của một người anh em chồng đối với nàng. Đứa con đầu lòng nàng sinh ra sẽ duy trì tên của người anh em đã chết; như vậy tên của người chết sẽ không bị xoá khỏi Ít-ra-en” (Đnl 25,5-6).

Khi một người đàn ông gặp một phụ nữ có chồng và quan hệ với nàng trong hoặc ngoài thành thì người đàn ông đó phải bị xử tử, không phải vì người đàn ông đó đã hãm hại người phụ nữ nhưng vì người đàn ông đó đã xâm phạm đến quyền sở hữu của người chồng cô ta (Đnl 22,23-29). Có lẽ điều răn thứ mười trong sách Xuất hành cũng đã chịu ảnh hưởng của bởi quan niệm xem phụ nữ như tài sản sở hữu của người chồng cũng giống như những thứ khác: “ngươi không được ham muốn nhà người ta, vợ người ta, tôi tớ nam nữ, con bò con lừa hay bất cứ vật gì của người ta” (Xh 20,17).

Người phụ nữ bị coi là xấu xa, ô uế và thấp hèn

Có lẽ tư tưởng xem người phụ nữ là xấu xa, là kẻ cám dỗ xuất phát từ lúc khởi nguyên, trong trình thuật sáng tạo, khi A-đam đổ lỗi cho người phụ nữ là đã dụ dỗ ông ăn trái cấm: Con người thưa: “Người đàn bà Ngài cho ở với con, đã cho con trái cây ấy, nên con ăn”(St 3,12).Tư tưởng này hình như đã ăn sâu vào suy nghĩ của người Do-Thái, nên trong sách Huấn Ca, tác giả đã nói về phụ nữ như là nguồn gốc của tội với giọng văn cay nghiệt:Tội bắt đầu có là do đàn bà,và cũng tại đàn bà mà tất cả chúng ta phải chết” (Hc 25,24). Cũng trong sách này, một số đoạn khác cũng cho thấy lối nhìn của tác giả về người phụ nữ thật tiêu cực, đầy dèm pha: Không vết thương nào sánh nổi vết thương lòng, (không sự dữ nào bằng sự dữ do đàn bà gây nên) không độc ác nào bằng độc ác của người phụ nữ” (Hc 25,13)Mọi gian ác đều chẳng thấm vào đâu so với gian ác của người đàn bà; thị sẽ phải chịu số phận của phường tội lỗi”(Hc 25,19); hơn nữa: Trước bất cứ ai, đừng chăm chú nhìn vào sắc đẹp, cũng đừng ngồi chung với bọn đàn bà. Vì cũng như áo quần có rận,đàn bà có thứ gian ác của đàn bà. Đàn ông gian ác hơn đàn bà tốt bụng, vì đàn bà trơ trẽn đưa đến nhục nhằn (Hc 42, 12-14). Khi tác giả nói rằng “đàn ông gian ác hơn đàn bà tốt bụng” thật là một lời thậm xưng, nó còn là lời vu khống cho phụ nữ. Vì trong lịch sử nhân loại, sự tàn ác, giết chốc, chiến tranh… đều đến từ những người đàn ông. Điển hình nhất là khởi đầu của lịch sử nhân loại, sự ác xuất phát từ người đàn ông mà Kinh Thánh đã cho thấy Ca-in đã giết Aben, em mình.

Hơn thế nữa, Kinh Thánh Cựu Ước còn xem phụ nữ là ô uế, nhơ nhớp. Theo quy luật tự nhiên, một người phụ nữ không thể tránh khỏi chu kỳ kinh nguyệt và việc sinh nở. Nhưng đối với luật Mô-sê, thời kỳ kinh nguyệt là thời kỳ ô uế nhất của người phụ nữ[1], ngay cả khi người khác đụng vào họ hay đụng vào những đồ dùng của họ, người đó cũng ra ô uế: “Khi một người đàn bà ra huyết, huyết từ thân thể chảy ra, thì nó sẽ ra ô uế bảy ngày vì có kinh. Bất cứ ai đụng vào nó, sẽ ra ô uế cho đến chiều. Mọi cái gì nó nằm khi có kinh, sẽ ra ô uế, mọi đồ vật nó ngồi lên, sẽ ra ô uế. Bất cứ ai đụng vào giường của nó, sẽ phải giặt áo, lấy nước mà tắm rửa, và sẽ ra ô uế cho đến chiều. Bất cứ ai đụng vào đồ vật nó đã ngồi lên, sẽ phải giặt áo, lấy nước mà tắm rửa, và sẽ ra ô uế cho đến chiều. Nếu có cái gì trên giường hoặc trên đồ vật nó đã ngồi lên, thì ai đụng đến cái đó, sẽ ra ô uế cho đến chiều” (Lv 15,19-23). Khi người phụ nữ sinh con thì cũng bị ô uế và sinh con gái thì bị ô uế gấp hai lần khi sinh con trai: “Khi một người đàn bà có thai và sinh con trai, thì sẽ ra ô uế trong vòng bảy ngày, nó sẽ ra ô uế như những ngày bị khó ở vì kinh nguyệt. Đến ngày thứ tám, đứa trẻ sẽ được cắt bì nơi da quy đầu. Rồi người đàn bà phải đợi ba mươi ba ngày cho máu được thanh tẩy; nó không được đụng đến vật thánh nào và không được vào thánh điện, cho đến khi mãn thời gian thanh tẩy của mình. Nếu sinh con gái, thì người đàn bà sẽ ra ô uế trong vòng hai tuần, như khi có kinh; rồi nó phải đợi sáu mươi sáu ngày cho máu được thanh tẩy” (Lv 12,2-5).Có thể nói, cuộc đời người phụ nữ có rất ít thời gian trong tình trạng trong sạch nên có lẽ dưới mắt người Do-thái, phụ nữ luôn là ô uế.

Có lẽ vì tư tưởng xem phụ nữ là nguồn gốc của sự gian ác, xấu xa, và luôn bị ô uế mà người Do-thái đã hạ thấp địa vị và phẩm giá của họ. Một điều rất rõ ràng là chỉ đàn ông mới có tên tuổi trong sổ sách thống kê dân số, người phụ nữ chỉ là những người phụ thuộc. Như trong sách dân số, con trai mới được liệt kê vào sổ: “Hãy kiểm tra con cái Lê-vi theo gia tộc và thị tộc, tất cả đàn ông con trai tuổi từ một tháng trở lên, hãy ghi số.” (Ds 3,5). Nếu phụ nữ là người hầu thì thật khốn đốn, họ sẽ không bao giờ được nói lên tiếng nói của mình. Người chủ có quyền hoàn toàn trên họ. Họ không có quyền quyết định số phận của mình, thậm chí họ có thể bị ép phải ăn ở với chủ mình và cũng có thể bị đuổi đi lúc nào không biết, như trường hợp của nàng hầu Haga (St 16, 1-6). Hơn nữa, trong sách dân số, khi Mô-sê đánh thắng quân Ma-đi-an và chiếm lấy những chiến lợi phẩm như chiên, dê, bò lừa … và phụ nữ cũng được liệt kê vào trong những chiến lợi phẩm đó: Ông Mô-sê và tư tế E-la-da làm như ĐỨC CHÚA đã truyền cho ông Mô-sê. Những của đoạt được, những phần còn lại của chiến lợi phẩm mà các người tham chiến đã chiếm lấy, là 675.000 chiên dê, 72.000 bò bê, 61.000 con lừa, và nhân mạng, tức là những phụ nữ chưa ăn ở với đàn ông, tất cả là 32.000 người (Ds 31,31-35). Một dẫn chứng khác cho thấy phụ nữ bị đối xử thật bất công. Trong khi người đàn ông ăn ở với người phụ nữ không phải là vợ mình, thậm chí với kỹ nữ vẫn không bị xem là có tội, thì người phụ nữ lại bị xử tử vì làm kỹ nữ hoặc ăn nằm với một người đàn ông khác không phải chồng mình, như trong chuyện của ông Giu-đa và con dâu là Ta-ma: Khoảng ba tháng sau, người ta báo cho ông Giu-đa rằng: “Ta-ma, con dâu ông, đã đi làm điếm; nó còn có thai vì làm điếm nữa! ” Ông Giu-đa nói: “Lôi nó ra mà thiêu sống! “ (St 38,24).

Có thể vì quan niệm người phụ nữ ô uế và thấp kém như vậy mà trong phụng tự Do Thái phụ nữ cũng không có chỗ đứng trong đền thờ, phụ nữ không được đọc hay nói trong hội đường và trong đền thờ. Đền thờ Do Thái thời Cựu Ước cho đến thời Chúa Giê-su vẫn luôn có sự phân biệt phái tính và giai cấp trong các hoạt động tôn giáo. Ở bên ngoài đền thờ là hành lang dành cho người ngoại, sân tiếp theo là sân giới hạn dành cho phụ nữ. Bên trong là sân dành cho những người nam Do Thái rồi đến sân dẫn đến Nơi Thánh dành riêng cho các thầy tế lễ, sau là Nơi Thánh và cuối cùng là Nơi Chí Thánh. Thật vậy, sách Lê-vi có nói thêm chi tiết là sau khi mãn thời gian thanh tẩy, người phụ nữ sẽ đền đền thờ làm lễ toàn thiêu và lễ xá tội, nhưng chỉ được đứng bên ngoài cửa lều: Khi mãn thời gian thanh tẩy, dù sinh con trai hay con gái, nó phải đem đến cho tư tế, ở cửa Lều Hội Ngộ, một con chiên một tuổi làm lễ toàn thiêu, và một bồ câu non hay một chim gáy làm lễ tạ tội.7 Tư tế sẽ tiến dâng chúng trước nhan ĐỨC CHÚA và cử hành lễ xá tội cho nó và nó sẽ được thanh tẩy sau khi đã xuất huyết” (Lv 12,6-7).

 

Các nữ ngôn sứ, một hiện tượng lạ trong Kinh Thánh Cựu Ước

Theo quan điểm và luật lệ của người Do Thái trong Cựu Ước, vị trí người phụ nữ rất thấp kém, họ không tự quyết định số phận của mình, sao họ lại có thể trở thành ngôn sứ, là người nói  Lời Thiên Chúa và là người quyết định số phận cho nhiều người, thậm chí là cho cả dân tộc được? Đó là một điều kỳ lạ xảy ra với ba người phụ nữ mà ta sẽ đề cập dưới đây. Họ được sách Thánh gọi là nữ ngôn sứ, là người của Thiên Chúa.

Các nữ ngôn sứ trong Cựu Ước

Trong Cựu Ước, Kinh Thánh đề cập tới ba người phụ nữ và được gọi là ngôn sứ, đó là nữ ngôn sứ Mi-ri-am, nữ ngôn sứ Đơ-vô-ra và nữ ngôn sứ Khun-đa.

  • Nữ ngôn sứ Mi-ri-am (Xh 15,20)

Bà Mi-ri-am thuộc chi tộc Lê-vi, con gái của ông Am-ram và bà Giô-khe-vết. Bà là chị của một nhân vật nổi tiếng trong lịch sử Do Thái là Mô-sê và là em của A-ha-ron (x. Xh 15,20). Khi còn nhỏ, Mi-ri-am là một đứa con ngoan ngoãn, vâng lời mẹ, thương em; Mi-ri-am chính là một cô bé kiên nhẫn, khôn ngoan, lanh lợi đã giới thiệu người vú nuôi người Hip-ri, cũng chính là mẹ mình cho công Chúa Ai-Cập (Xh 2,4-8). Bà Mi-ri-am cùng với A-ha-ron là cánh tay đắc lực hỗ trợ Mô-sê trong hành trình dẫn dắt dân băng qua sa mạc 40 năm. Sau khi vượt Biển Đỏ khô chân, bà Mi-ri-am là người hướng dẫn phụ nữ trong việc ca hát thờ phượng Chúa. Bà viết những bài hát ca ngợi Chúa qua cuộc chiến thắng khải hoàn tiêu diệt quân Ai-Cập trong lòng biển: “Nữ ngôn sứ Mi-ri-am, em ông A-ha-ron, cầm lấy trống; mọi phụ nữ theo bà đi ra, đánh trống và nhảy múa.21 Bà Mi-ri-am xướng lên rằng:”Hãy hát mừng ĐỨC CHÚA, Đấng cao cả uy hùng, kỵ binh cùng chiến mã, Người xô xuống đại dương” (Xh 15,20-21). Trong Kinh Thánh, chỉ có bà là người phụ nữ duy nhất được vào trong Lều Hội Ngộ (x. Ds 12,4). Bà cũng là người phụ nữ duy nhất được nêu danh trong gia phả với tư cách là một người con “Tên người vợ của Am-ram là Giô-khe-vét, con gái ông Lê-vi, ông đã sinh bên Ai-cập. Bà đã sinh cho ông Am-ram: A-ha-ron, Mô-sê và người em gái là Mi-ri-am (Ds 26,59). Kinh thánh cũng nhắc đến ngày qua đời của bà: Toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en đến sa mạc Xin vào tháng giêng, và dân ở lại Ca-đê. Bà Mi-ri-am đã qua đời và được chôn cất tại đây” (Ds 20,1). Tất cả những điều này chứng tỏ rằng Bà Mi-ri-am rất quan trọng trong sứ mạng của Mô-sê. Mặc dù bà đã phạm tội trước nhan Đức Chúa và Chúa đã phạt bà bị bệnh phong và cũng chính Chúa đã chữa lành cho bà. Từ đó, bà tiếp tục giúp đỡ Mô-sê phục vụ cho sứ mạng của Chúa. Chúa đã đặt bà làm ngôn sứ để đứng bên cạnh nâng đỡ Mô-sê trong lúc khó khăn cũng như trong giờ phút vinh quang và chia sẻ với Mô-sê hy vọng tươi sáng về một vùng đất hứa mà Chúa sẽ ban cho dân tộc Ít-ra-en.

  • Nữ ngôn sứ Đơ-vô-ra (Tl 4, 4-10)

Trong sách thủ lãnh có kể về một nữ ngôn sứ khác, đó là bà Đơ-vô-ra. Bà mạnh mẽ oai hùng. Bà là một nhà lãnh đạo có đầy uy thế không phải vì tài năng và sức riêng của mình mà do bà có Đức Chúa ở cùng. Những gì bà nói, ra lệnh là những lời bà nghe được nơi Đức Chúa. Vì thế, bà được gọi là ngôn sứ và nắm quyền xét xử con cái Ít-ra-en trên núi Ép-ra-im: Bà Đơ-vô-ra, một nữ ngôn sứ, vợ ông Láp-pi-đốt, thời ấy làm thủ lãnh xét xử Ít-ra-en.5 Bà ngồi xử dưới Cây Chà Là Đơ-vô-ra, giữa Ra-ma và Bết Ên, trên núi Ép-ra-im, và con cái Ít-ra-en đến với bà để bà xét xử cho” (Tl 4,4-5). Câu chuyện nổi tiếng của bà là cuộc chiến oai hùng đưa dân tộc Ít-ra en thoát khỏi ách thông trị của Ga-vin, vua Ca-na-an. Một người đàn bà mạnh mẽ và can đảm nhờ vào sức mạnh của Đức Chúa, trong khi vị tướng Ba-rắc chỉ huy mười ngàn quân lại rụt rè, sợ hãi trước chín trăm xe sắt của tướng Xi-xơ-ra, người Ca-na-an. Ông Ba-rắc nói với bà: “Nếu bà đi với tôi thì tôi đi, nếu bà không đi với tôi thì tôi không đi.”9 Bà trả lời: “Chắc chắn tôi sẽ đi với ông. Có điều là trong chuyến đi này, vinh dự không thuộc về ông, vì ĐỨC CHÚA sẽ trao Xi-xơ-ra vào tay một người đàn bà” (Tl 4,9). Cuộc chiến này đã đập tan ách thống trị của vua Ca-na-an trên dân tộc Ít-ra-en; và lãnh thổ Ít-ra-en được bình an trong 40 năm.

  • Nữ ngôn sứ Khun-đa (2V 22,14-20)

Sau triều đại của Vua Mơ-na-sê và A-Môn, được xem là hai bị vua vô đạo đức nhất của Giu-đa, thời kỳ đân tộc Ít-ra-en hoàn toàn phản bội Thiên Chúa: vua đã xây các tế đàn kính toàn thể các thiên binh. Vua làm lễ thiêu con trai mình, làm nghề chiêm tinh và phù thuỷ, lập ra cô đồng và thầy bói; vua làm nhiều điều dữ trái mắt ĐỨC CHÚA để trêu giận Người”(2V 21,6), một người phụ nữ khác xuất hiện với danh hiệu là ngôn sứ. Đó là nữ ngôn sứ Khun-đa, thời vua Giô-si-gia. Trong thời điểm này có rất nhiều ngôn sứ nổi lên như: ngôn sứ Xô-phô-ni-a, Na-khun, Kha-ba-cúc, Giê-rê-mi-a, nhưng có một điều rất lạ là vua Giô-si-gia sai các tư tế và ký lục lại đi tìm gặp một người phụ nữ để thỉnh ý Đức Chúa: “Tư tế Khin-ki-gia-hu, các ông A-khi-cam, Ác-bo, Sa-phan và A-xa-gia đi gặp nữ ngôn sứ Khun-đa, vợ người phụ trách phòng lễ phục là ông Sa-lum, con ông Tích-va; cháu ông Khác-khát; bà ở tại khu vực phụ thuộc thành Giê-ru-sa-lem” (2 V 22,14). Nữ ngôn sứ này đã nói Lời Đức Chúa, và đã làm thay đổi cả dân tộc Giu-đa, từ kẻ phản bội Đức Chúa chuyển sang thờ phượng và trung thành với Đức Chúa. Vì sau khi nghe lời từ miệng ngôn sứ Khun-đa, các tư tế và ký lục đã về tâu lại với vua Giô-si-gia, vua đã yêu cầu toàn dân nghe đọc sách luật của Đức Chúa và“cam kết đi theo Đức Chúa, hết lòng hết dạ tuân giữ các mệnh lệnh, chỉ thị và quy tắc của Người” (2 V 23,3).

Một hiện tượng lạ trong Kinh Thánh Cựu Ước

Qua hình ảnh của ba người phụ nữ, ba nữ ngôn sứ, được trình bày ở trên, ai cũng có thể thấy có một điều gì đó lạ thường ở đây. Thông thường người phụ nữ Ít-ra-en phải tùy thuộc vào đàn ông, không có quyền quyết định cho số phận của mình; người phụ nữ không hề có tiếng nói trong hội đường và những nơi công cộng khác; phụ nữ thường bị xem là ô uế khi đến thời kỳ kinh nguyệt hay khi sinh nở, ngay cả những người khác khi đụng vào cũng bị lây nhiễm uế… Nhưng ở đây, ba nữ ngôn sứ này đều có vai trò quyết định số phận của dân tộc Ít-ra-en.

Nữ ngôn sứ Mi-ri-am lãnh đạo các phụ nữ hát ca ngợi khen Đức Chúa và cùng với A-ha-ron giúp Mô-sê lãnh đạo dân Chúa thoát khỏi ách thống trị của Ai-cập và đưa dân qua sa mạc 40 năm trường. Đây là trường hợp đặc biệt trong Cựu Ước vì theo lẽ thông thường, trong văn hóa Do Thái, người phụ nữ không thể nào có vị trí đặt biệt như vậy.

Chiến thắng của nữ ngôn sứ Đơ-vô ra, đồng thời là thủ lãnh của dân tộc Ít-ra-en thời đó, có lẽ là hiện tượng có một không hai trong dòng lịch sử Ít-ra-en vì sẽ khó ai giải thích được rằng với quan niệm của người Do-Thái về phụ nữ như được trình bày ở trên, thì làm sao dân Do-Thái lại có thể để cho một người phụ nữ làm thủ lãnh của mình được?

Trong câu chuyện về nữ ngôn sứ Khun-đa, bà là người rất có ảnh hưởng, đến nỗi các tư tế và ký lục phải đến tham vấn bà để biết ý Đức Chúa và vua Giô-si-gia phải nghe theo lời bà, ông đã đưa toàn bộ Ít-ra-en quay về với Đức Chúa sau bao nhiêu năm dân phản nghịch với Ngài. Thật là điều khó hiểu! Bà chứng tỏ cho thấy phụ nữ cũng có thể biết ý Đức Chúa và nói Lời của Đức Chúa.

Những điều lạ thường đó xảy ra, như chúng ta đã thấy, chứng tỏ rằng không phải tự sức mình mà những người phụ nữ với thân phận thấp hèn có thể làm nên những điều vĩ đại như thế, chỉ có bàn tay Thiên Chúa mới có thể nâng cao những người hèn kém như trong Thánh Vịnh 113 có nói: “Kẻ mọn hèn, Chúa kéo ra khỏi nơi cát bụi; ai nghèo túng, Người cất nhắc từ đống phân tro,đặt ngồi chung với hàng quyền quý, hàng quyền quý dân Người” (TV 113,7-8) và Thiên Chúa không hề bị giới hạn bởi bất cứ luật lệ nào của con người. Ngôn sứ là người do chính Thiên Chúa chọn và không ai có quyền chống lại dù cho họ ở bất cứ địa vị nào và chính họ cũng không thể làm trái lệnh Thiên Chúa, như trong sách Đệ Nhị Luật, Thiên Chúa phán với ông Mô-sê: Từ giữa anh em của chúng, Ta sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như ngươi để giúp chúng, Ta sẽ đặt những lời của Ta trong miệng người ấy, và người ấy sẽ nói với chúng tất cả những gì Ta truyền cho người ấy. Kẻ nào không nghe những lời của Ta, những lời người ấy nói nhân danh Ta, thì chính Ta sẽ hạch tội nó. Nhưng ngôn sứ nào cả gan nhân danh Ta mà nói lời Ta đã không truyền cho nói, hoặc nhân danh những thần khác mà nói, thì ngôn sứ đó phải chết” (Đnl 18, 17-20).

Kết Luận:

Đối với những tôn giáo khác, việc những người phụ nữ được tôn vinh qua những huyền thoại như những nữ thần là chuyện bình thường. Nhưng đối với Do Thái Giáo, không hề có thần nào ngoài Thiên Chúa. Những nữ ngôn sứ được đề cập đến ở trên là những người nữ bình thường, họ có nơi xuất thân và cuộc đời của họ được ghi vào sử sách, chứ họ không phải là những người được thần thánh hóa như các vị thần của các tôn giáo khác. Họ được nổi bật là vì trong dòng lịch sử, văn hóa trọng nam khinh nữ nhưng họ lại được tín nhiệm một cách lạ thường. Điều lạ thường đó chứng tỏ Thiên Chúa vĩ đại và quyền năng vì Ngài có khả năng biến những điều không thể thành có thể. Thiên Chúa cho dòng dõi Ít-ra-en đông đúc, xuất phát từ một cặp vợ chồng hiến muộn, già nua là ông Ap-ra-ham và bà Sa-ra; Ngài chọn một người ngọng nghịu, không biết ăn nói, như Mô-sê, làm người lãnh đạo xuất chúng của Dân tộc Ít-ra-en qua mọi thời; Ngài cho Đa-vít, một cậu bé chăn cừu để chiến thắng Go-li-át tướng của người Phi-li-tinh và trở thành vị vua vĩ đại của dân tộc Ít-ra-en… Và đặc biệt hơn cả, Thiên Chúa đã chọn một phụ nữ bình dân làm Mẹ của Đấng Cứu Thế, đó là Mẹ Ma-ri-a, vì “Đối với Thiên Chúa, không gì là không thể làm đươc”(Lc 1:37).

Như vậy, chính Thiên Chúa đã tôn trọng và tín nhiệm người phụ nữ như vậy thì không có lý do nào mà con người lại có thể khinh chê người phụ nữ, xem họ là những người thấp hèn và sử dụng họ như những công cụ giải trí như vẫn thường xảy ra trong thế giới ngày nay. Với thông điệp này, những người tín hữu phải là người đi đầu trong công cuộc bảo vệ quyền lợi cho người phụ nữ và tôn trọng họ như chính Thiên Chúa tôn trọng họ.

[1] Tại sao người Do Thái có quan niệm này, các tác giả giải thích điều này như thế nào?