Thánh Augustine thành Hippo, nhà thần học và giám mục vĩ đại của thế kỷ thứ tư, đã đưa ra những khía cạnh quan trọng của hôn nhân được gọi bằng tiếng Latinh là bona (lợi ích), những mục đích hay hoa trái của hôn nhân. Trước hết, và trên hết, hôn nhân Kitô giáo là vì lợi ích của đôi bạn (cả chồng và vợ). Điều này được gọi là bonum coniugum trong tiếng Latin. Đó là bản chất của bí tích hôn phối.
Thần học Công giáo dạy rằng một bí tích hôn nhân Kitô giáo thành sự phụ thuộc hoàn toàn vào ý muốn của cả cô dâu và chú rể trong ngày họ cưới, đặc biệt là vào lúc họ trao đổi sự đồng thuận (kể cả bằng lời: tôi ưng thuận, hay bằng thề hứa với nhau). Cả hai phải có ý muốn ràng buộc với nhau lâu dài, trung thành và sẵn sàng đón nhận con cái, nếu không sẽ không có bonum conumugum và do đó, không có hôn nhân. Thánh Augustine gọi ba ý định này là bonum sacramenti (vĩnh cửu), bonum fidei (trung thành), và bonum prolis (con cái).

Con cái không phải là mục đích duy nhất của hôn nhân, như một số người vẫn gán cho quan điểm Giáo Hội Công giáo. Tuy nhiên, truyền sinh là một trong ba khía cạnh thiết yếu. Điều quan trọng cần phải nhấn mạnh ở đây là ý định, mong muốn và sẵn sàng có con là điều cần thiết. Các cặp vợ chồng đã kết hôn, về mặt sinh học không thể có con, vẫn là hôn nhân và vẫn là bí tích thành sự. Vô sinh không phải là một ngăn trở bí tích nhưng một miễn chuẩn có thể được ban cho những cá nhân bất lực và như thế không thể hoàn thành hôn nhân. Chỉ những ai cố tình ngăn cản lợi ích chung của vợ chồng bằng cách cố ý loại trừ một hoặc ba trong số ba mục đích thiết yếu của hôn nhân (ví dụ: bằng cách sử dụng thường xuyên biện pháp ngừa thai nhân tạo hoặc triệt sản không trị liệu) làm cho sự kết hợp này không thành sự.

Chắc chắn có thể hiểu được, nhưng dù sao vẫn là tội, những cách có con không hợp luân lý, chẳng hạn, thụ tinh trong ống nghiệm, hiến trứng và tinh trùng, cấy thai, và mang thai hộ. Những phương pháp khoa học này liên quan đến những phương tiện không hợp luân lý, chẳng hạn như thủ dâm, chọn lọc trứng thụ tinh “tốt nhất” và phá những phôi thai khác, trứng được thụ tinh đông lạnh và ngoại tình. Con cái phải được sinh ra một cách tự nhiên giữa một người chồng và một người vợ, chứ không phải trong phòng thí nghiệm. Khả năng sinh sản có thể được y khoa hỗ trợ, chẳng hạn như thụ tinh trong cơ thể (in vivo fertilization), không liên quan đến phương tiện không hợp luân lý. Khi các cặp vợ chồng rơi vào tình trạng hiếm muộn, kinh nghiệm đó là một thập giá nên được can đảm đón nhận. Mặc dù không bắt buộc, đôi bạn được khuyến khích xem xét việc nhận con nuôi, một hành động yêu thương vị tha từ phía các cặp vợ chồng.

Mở ngỏ cho khả năng có con không có nghĩa là về mặt sinh học có thể có bao nhiêu con thì có. Điều hòa sinh sản tự nhiên là một cách thức hợp đạo đức và luân lý, sử dụng các phương tiện có thể chấp nhận được về mặt luân lý để định hướng số lần và tần suất có thai. Nếu một hoặc cả hai vợ chồng không muốn có con, thì đó là một thiếu sót nghiêm trọng như thể không muốn chung thủy hoặc không có ý muốn bước vào một mối quan hệ lâu dài. Thỏa thuận tiền hôn nhân là dấu hiệu cho thấy ai đó có thể không có ý muốn ràng buộc vĩnh viễn, làm mất hiệu lực của hôn nhân. Cũng sẽ là vô hiệu những tình huống khi người ta không muốn có con vì sợ chúng phá hỏng cơ hội thăng tiến sự nghiệp của họ.

Vào năm 1968, Đức Giáo hoàng Phaolô VI đã ban hành thông điệp nổi tiếng, Sự Sống Con Người (Humanae Vitae), trong đó, ngài dạy rằng hôn nhân Kitô giáo và đặc biệt là hành vi quan hệ vợ chồng trong hôn nhân là những biểu tượng thiêng liêng và linh thánh của khía cạnh hiệp nhất (tình yêu) và truyền sinh (sự sống) làm nên nền tảng của bí tích Hôn Phối.

Hôn nhân được xem là một trong hai bí tích của ơn gọi, bí tích còn lại là Truyền Chức Thánh. Thông qua bí tích hôn phối, cặp vợ chồng cam kết bước vào một mối dây ràng buộc vĩnh viễn chỉ có thể giải giỡ bằng cái chết, phải luôn luôn chung thủy (nói cách khác, loại trừ bất cứ bạn tình nào khác), và có con cái hoặc mở ngỏ cho khả năng có con nếu Chúa muốn. Yêu cầu cuối cùng này bắt nguồn từ Cựu Ước (St 1:28), khi Thiên Chúa nói với A-đam và E-và, “hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất.” Theo nghĩa của Công Giáo, hôn nhân là mảnh đất màu mỡ không chỉ để sinh sống trên trái đất, mà mà còn là trên thiên đàng – nơi là cùng đích tối hậu của chúng ta trên đường đời.

Chuyển ngữ: Nhóm Majorica, Học viện Dòng Tên

Nguồn: Rev. John Trigilio JR., Ph.D., and Rev. Kenneth D. Brighenti, Ph.D., The Catholicism Answer Book- The 300 Most Frequently Asked Question, (Naperville, Illinois: Sourcebooks, Inc., 2007), 136-38.