(Ảnh từ Internet)

Câu 66: Những đóng góp chính của Aristotle cho nền triết học Phương Tây là gì?

Aristotle (384-322 TCN) đã kiềm chế khuynh hướng thần bí trí thức đã được Parmenides giới thiệu. Aristotle đã cấu trúc hóa ý nghĩa chung trong những cách thức vốn kiểm chứng những suy lý thái quá của thầy ông ta là Plato. Điều này thiết lập nền tảng vững chắc cho chủ nghĩa kinh nghiệm, hay kiến thức dựa trên quan sát của giác quan và kinh nghiệm trực tiếp. Aristotle hoàn thành công việc của mình qua những tường thuật bách khoa về những kiến thức hiện có trong thời của ông, những đánh giá về những kiến thức đó, và sự phát triển của những kiến thức đó trong những lĩnh vực mới, những lãnh vực sử dụng những phương pháp suy tư mới. Aristotle là sự kết hợp hiếm có giữa một học giả hiểu biết cao siêu và cần mẫn với một nhà tư tưởng độc sáng. Cũng như người kế nghiệp của ông, Georg Wilhelm Friedrich Helgel (1770-1831) ở TK 19, Aristotle có khả năng “suy tư về toàn thể thế giới .” Nhưng không giống Hegel, ông ta suy tư về thế giới không như là một nhà lý luận trừu tượng và suy lý nhưng như một người bình thường, nếu người ấy có thể suy tư như vậy.

Câu 67: Điều gì ta biết về cuộc đời của Aristotle?

Aristotle thành Stragira (384-322 TCN), con của Nichomachus vốn là ngự y của triều đình vua Macedonia Amyntas II. Sự nghiệp của Aristotle được định hình bởi mối tương quan với người cha của ông ta vốn là nhà khoa học . Khi Aristotle 17 tuổi, ông ghi danh vào trường Academy của Plato ở Athens. Sau khi Plato qua đời vào năm 347 TCN và chương trình giảng dạy của Academy bị thay đổi, theo hướng quan tâm về toán học và suy lý của người đứng đầu mới Speusippus (407-339 TCN), nên Aristotle rời đi Assos, nơi  sau này Hermias lãnh đạo. Hermia trước kia là một nô lệ rồi thăng tiến đến vị trí cai trị mà ông chủ của ông ta nắm giữ. Aristotle cưới cháu gái Pythias của Hermias vào năm 345 TCN; và sau khi Hermias chết, Aristotle đi đến Lesvos.

Đảo Lesvos ở phía đông bắc Biển Aegean có sự đa dạng nơi các loại sinh vật biển và các loài hữu nhũ đương thời cũng như nhiều hóa thạch cổ. Aristotle theo đuổi nghiên cứu sinh học về phân loại các sinh vật sống ở đây. Năm 343 TCN, vua Philip của Macedonia mời Aristotle đến phục vụ với tư cách là gia sư cho con trai Alexander của ông, người sẽ trở thành Alexander Đại Đế. Vào năm 335 TCN, Aristotle trở lại Athens. Ông thành lập trường học Lyceum như là sự dâng hiến nhỏ bé dành cho thần Apollo Lyceus ở ngoại thành. Tại trường Lyceum, Aristotle đã giảng dạy và hướng dẫn nghiên cứu. Ông cũng xây dựng và lưu trữ thư viện vĩ đại đầu tiên của thời cổ đại. Lối đi bộ giữa hàng cột, hay “peripatos,” [loài có móng- ND] là nguồn gốc của tên gọi “Perapatetics” dành cho những thành viên của trường Lyceum.

Sau khi vợ ông là Pythias qua đời, Aristotle sống với Herphyllis và có một người con trai. Con trai của họ được đặt tên theo tên ông nội là Nichomachus, và đây cũng là tên tác phẩm về đạo đức của Aristotle. Khi Alexander Đại Đế  qua đời năm 325 TCN, Aristotle lui về ở ẩn tại Chalcis và sống hết phần đời còn lại.

Câu 68: Những tác phẩm còn sót lại của Aristotle là gì?

Sau khi Aristotle rời Lyceum, nhiều sách vở và những cuộc đối thoại của ông không bao giờ được nhìn thấy nữa, và các tác phẩm khác của ông bị giấu trong hầm mộ trong hai thế kỷ. Thực ra, cho đến thời Phục Hưng ở Châu Âu, các tác phẩm của Aristotle đã mất và lại được tìm thấy. Một phần lớn bài viết còn tồn tại của Aristotle có thể đã được các sinh viên của ông phục chế từ các bài chép tay khi họ nghe Aristotle giảng, hoặc được biên soạn sau đó bởi các nguồn thứ cấp do những người theo trường phái Aristotle. Một số có thể đã được chính Aristotle viết hoặc các thành viên khác của Lyceum, theo kiểu những bài giảng được chuẩn bị.

Ngày nay, các học giả đồng ý rằng các tác phẩm sau của Aristotle đã bị mất: các cuộc đối thoại trong cùng một phong cách như Plato; một bộ sưu tập lớn các điều quan sát được từ thiên nhiên; các ấn phẩm phổ biến; các bài giảng về sự thiện và hình thái của Plato; có tới 158 hiến pháp cho các thành bang của Hy Lạp, trong số đó chỉ có một hiến pháp cho Athena còn sót lại.

Trong thế kỷ thứ nhất, Andronicus of Rhodes đã sắp xếp văn khố của những người theo Aristotle còn tồn tại, thành bộ sưu tập như hiện nay, nhưng bản sao đầu tiên của nó vào thế kỷ thứ chín. Ấn phẩm phê bình đầu tiên về những tác phẩm của Aristotle được Berlin Academy xuất bản năm 1831. Ấn phẩm này chỉ chiếm chừng một phần năm tác phẩm của Aristotle, nhưng đã khoảng 1500 trang in nhỏ các bản dịch tiêu biểu của “bộ sưu tập các tác phẩm” của Aristotle, nó cung cấp một cơ sở trọng yếu cho tài liệu tham khảo học thuật ngày nay.

Chuyển ngữ: Nhóm Maiorica, Học viện Dòng Tên

Nguồn: Naomi Zack, Ph.D., The Handy Philosophy Answer Book, (Visible Ink Press, 2010), 32-34.